Danh mục

Biểu tượng đa nghĩa của Thăng Long trong thơ Nguyễn Du _4

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 216.32 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

1. Muốn tìm hiểu hình ảnh Thăng Long trong thơ Nguyễn Du được thể hiện dưới các cấp độ đậm nhạt như thế nào thì trước hết phải xác định được mối quan hệ gắn bó giữa Nguyễn Du với Thăng Long sâu nặng đến mức độ nào.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Biểu tượng đa nghĩa của Thăng Long trong thơ Nguyễn Du _4Biểu tượng đa nghĩa củaThăng Long trong thơ Nguyễn Du 1. Muốn tìm hiểu hình ảnh Thăng Long trong thơ Nguyễn Du được thể hiện dướicác cấp độ đậm nhạt như thế nào thì trước hết phải xác định được mối quan hệ gắn bógiữa Nguyễn Du với Thăng Long sâu nặng đến mức độ nào. Ai cũng biết quê quán củaNguyễn Du là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc Hà Tĩnh.Nhưng ông lại sinh ra giữa kinh đô Thăng Long vào thời quyền uy Lê – Trịnh đangnghiêng ngửa. Hai năm sau khi ông sinh thì Trịnh Sâm (1737-1782) lên nắm quyền,“muốn làm cuộc chấn hưng lớn về văn trị” (cải cách giáo dục)(1), đồng thời cũng dốc chíđánh dẹp nốt hai vụ “dấy loạn” lớn còn sót lại là Lê Duy Mật (Trấn Ninh) và Hoàng CôngChất (Hưng Hóa). Nguyễn Nghiễm (1708-1775), thân phụ Nguyễn Du, kiêm toàn văn võ,là một trong vài ba đại thần được lựa chọn cho hai chủ trương hệ trọng này. Chúa giaocho ông đem quân vào miền núi Nghệ - Tĩnh đánh đuổi Lê Duy Mật sang tận bên kianước Lào rồi trở về tiếp tục giữ chức Tham tụng, kiêm trông coi Quốc Tử Giám, đôn đốccác vị Tế tửu, Tư nghiệp “hàng ngày đến giảng sách sử ở nhà Thái học”(2). Mẹ Nguyễn Dulà bà vợ thứ Trần Thị Tần, “đất lề quê thói” Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) - nơi cáinôi của những làn điệu dân ca phong phú chất trữ tình. Nguyễn Du mới lên ba đã được tập ấm Hoằng tín đại phu, Trung thành môn vệ úy,tước Thu Nhạc bá. Ông sống trong nhung lụa suốt thời tuổi nhỏ và lẽ tự nhiên, uy phonghọ Nguyễn Tiên Điền lừng lẫy giữa kinh đô đã thấm vào cốt tủy, trở thành thứ vốn liếngtổng hợp – vừa gia phong vừa quốc phong mà cả gia phong và quốc phong đều thông quavăn hóa Tràng An để quy chiếu, ăn sâu bén rễ trong ông. Cái cảnh người anh trai lớn –Nguyễn Khản (1734-1786) – đậu Tiến sĩ được đích thân ông bố đứng ra gắn vào mũ bônghoa cho con lúc vua ban yến ở Lễ bộ đường (1760) không chỉ trở thành giai thoại lantruyền khắp nơi mà đối với họ Nguyễn còn là niềm hãnh diện. Sau ngày Nguyễn Nghiễm mất (Ất Mùi, 1775), rồi mẹ đẻ ông cũng mất (Mậu Tuất,1778), Nguyễn Du phải chuyển về ở với Nguyễn Khản, bấy giờ đang làm Tả thị lang BộHình kiêm Hiệp trấn xứ Sơn Tây. Thơ Nguyễn Du tuyệt không nhắc gì đến người anhkhác mẹ này dễ thường vì quá cách biệt tuổi tác, song chắc chắn trong vòng mười năm, từtuổi 13 đến lúc trưởng thành, ông không chỉ nếm trải mọi biến cố thịnh suy trong đại giađình mà còn vô tư đón nhận những gam màu lấp lánh của thời kỳ “bình yên vô sự” cuốicùng dưới tay chúa Trịnh Sâm, thông qua người bề tôi thân tín tài hoa rất mực NguyễnKhản, người được chúa “thân thiết như bạn áo vải”(3), hàng ngày giao du qua lại. “TínhKhản hào hoa, trong lâu đài mình ở không mấy khi dứt tiếng sênh ca, hoặc tiếng ngâmthơ, đánh đàn để mua vui. Người ta thường xem Khản là bậc đại thần phong lưu”(4).Những buổi dạo thuyền giữa Tây hồ, “kẻ thị thần vệ sĩ bày hàng hóa quanh cả bốn mặt bờhồ, nhà chúa cùng với Đặng Tuyên phi cùng ngồi trên thuyền mà Nguyễn Khản thì ngồihầu ngang trước mặt, cùng thưởng lãm cười nói, không khác gì bạn bè người nhà”(5);những cuộc yến tiệc đàn ca thâu đêm tại nhà riêng, một nơi cảnh trí nên thơ giáp quánBích Câu và chùa Tiên Tích, khi con hát xướng lên những bài nhạc phủ do chủ nhân đặtlời liền “được giáo phường khắp kinh thành tranh nhau truyền tụng”... hẳn đã in hằn vàotâm trí Nguyễn Du nhiều khuôn hình rực rỡ và hứng thú nghệ thuật khó có thể phai. Đấylà dấu ấn văn hóa Thăng Long đối với Nguyễn Du ở giai đoạn thứ hai, cũng là giai đoạnquan trọng nhất: vào lúc ông bắt đầu trưởng thành. Đến năm 1780, con trai cả Trịnh Sâm là Trịnh Tông (1763-1786) do mưu toan phếlập bị truất ngôi Thế tử thì Nguyễn Khản vốn là Tùy giảng của Thế tử cũng bị bắt giam.Khi Kiêu binh đưa Tông ra khỏi nhà ngục giành lại ngôi chúa (1782), Khản được bổ làmThượng thư Bộ Lại và Tham tụng, song chẳng được mấy ngày đã bị Kiêu binh kéo đếnphá nhà, phải bỏ trốn lên Sơn Tây, rồi vì mưu toan trấn áp bọn họ bất thành phải trốnthẳng về xứ Nghệ. Không hiểu sao Nguyễn Du lại được đứng ngoài mọi hệ lụy. Ông vẫn đi học, năm1783 đi thi Hương đậu tam trường, rồi kế chân người bố nuôi họ Hà giữ chức quan võ ởThái Nguyên. Tuy thế, vận hội Lê - Trịnh bấy giờ đã đến hồi cùng. Chỉ ba năm sau,1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc, phế bỏ phủ chúa, ba năm sau nữa, ra Bắc lần thứhai đánh tan quân Thanh xâm lược, đuổi Lê Chiêu Thống (1765-1793) chạy khỏi bờ cõi,kết thúc vĩnh viễn triều đại Lê, khiến cho nhiều bề tôi nhà Lê, trong đó có Nguyễn Du,phải rời bỏ vĩnh viễn Thăng Long, long đong c ùng đất cuối trời. Những biến cố đổi thaytriều đại giai đoạn này tất nhiên dội mạnh vào Nguyễn Du như một cơn lốc. Và cảnhtang thương dâu bể của nơi phồn hoa đô hội thân thuộc, từ nhiều tầng bậc khác nhau, vớinhiều số phận bi hài trớ trêu diễn ra trước mắt, lại cũng khía sâu vào tâm trí nhà thơnhững ấn tượng khác thường, hình thành nên ở ông một cái nhìn sâu thẳm, đột xuất vềphư ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: