Tuyến giáp là một tuyến nội tiết của cơ thể nằm ở vùng trước cổ. Tuyến giáp có vai trò quan trọng trong việc điều hoà năng lượng của cơ thể, ảnh hưởng đến các hoạt động của các cơ quan như tim mạch, thần kinh, nội tiết, trí óc, chuyển hoá thức ăn…I. Các bệnh thường gặp của tuyến giáp 1. Bệnh bướu giáp đơn thuần Đây là bệnh lý thường gặp nhất (80%). Nguyên nhân bệnh chủ yếu do thiếu iôt. Biểu hiện: bướu giáp lan tỏa (tuyến giáp lớn) và bướu giáp nhân (có một hoặc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bướu giáp – Khi nào cần phẫu thuật? Bướu giáp – Khi nào cần phẫu thuật? Tuyến giáp là một tuyến nội tiết của cơ thể nằm ở vùng trước cổ. Tuyếngiáp có vai trò quan trọng trong việc điều hoà năng lượng của cơ thể, ảnh hưởngđến các hoạt động của các cơ quan như tim mạch, thần kinh, nội tiết, trí óc,chuyển hoá thức ăn… I. Các bệnh thường gặp của tuyến giáp 1. Bệnh bướu giáp đơn thuần Đây là bệnh lý thường gặp nhất (80%). Nguyên nhân bệnh chủ yếu do thiếuiôt. Biểu hiện: bướu giáp lan tỏa (tuyến giáp lớn) và bướu giáp nhân (có một hoặcnhiều nhân) 2. Bướu cường giáp: Thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi 20-45. Nguyênnhân thường thấy là bệnh basedow với bướu giáp mạch lan tỏa kèm lồi mắt hoặckhông, số còn lại là cường giáp với bướu giáp đa nhân hóa độc 3. Hội chứng cường giáp: run tay, tim đập nhanh, hồi hộp, ăn nhiều màgầy, hay nóng tính bất thường 4. Ung thư giáp: Biểu hiện bệnh ở giai đoạn sớm giống như bướu giáp đơnthuần. Bệnh thường gặp ở người trung niên và lớn tuổi, ở nhóm bệnh nhân cóbướu giáp đơn nhân. Tuy nhiên ở bệnh nhân cường giáp, bướu giáp đa nhân vàbướu giáp lan tỏa... cũng có tỷ lệ nhỏ bị ung thư giáp. Ở giai đoạn muộn, bệnhnhân có khàn tiếng không hồi phục 5. Suy giáp: do rối loạn chuyển hóa dẫn đến suy chức năng giáp. Suy giápbẩm sinh do thiếu men tổng hợp kích tố giáp. Suy giáp còn gặp do tai biến điều trịthuốc kháng giáp, sau phẫu thuật bướu giáp, hoặc sau điều trị iôt đồng vị phóngxạ. II. Bướu giáp loại nào mới cần phẫu thuật? Với bướu giáp đơn thuần thể phình giáp lan tỏa, bệnh nhân chỉ cần điều trịbằng thuốc sẽ cho kết quả rất tốt. Riêng bướu giáp đơn thuần đơn nhân hoặc đanhân nếu điều trị thuốc sáu tháng không hiệu quả mới phải mổ. Thông thường,bệnh nhân phát hiện bướu sớm, đi khám bệnh ngay sẽ có kết quả tốt hơn vì để lâuquanh nhân sẽ có vùng xơ hóa không đáp ứng thuốc. Ngoài ra, một số bệnh nhânbị bướu giáp nhân sẽ phải mổ sớm - dù chưa điều trị nội khoa hoàn tất - khi bướucó biến chứng gây chèn ép, khó thở, bướu lớn nhanh, bướu xuất huyết trong lòngbướu, bệnh nhân lớn tuổi có khàn tiếng chưa loại trừ ung thư - Lưu ý ở các em gái trong tuổi dậy thì (12-18 tuổi) hoặc phụ nữ có thai,tuyến giáp hơi lớn ra dạng phình giáp lan tỏa là hiện tượng sinh lý, hoàn toànkhông có chỉ định mổ III. Phương pháp điều trị - Bướu cường giáp: điều trị chủ yếu bằng thuốc kháng giáp tổng hợp,thuốc tim mạch, bệnh nhân sẽ phục hồi nhanh chóng và trở về trạng thái bìnhthường. Thời gian điều trị khoảng 12-18 tháng, thường cho kết quả rất tốt đối vớibệnh cường giáp mà bướu giáp lan tỏa độ 1 hoặc tuyến giáp còn trong kích thướcbình thường. Tuy nhiên, đối với bệnh cường giáp mà bướu giáp nhân hoặc tuyếngiáp lớn độ 2, độ 3, sau khi điều trị nội khoa ổn định (lên cân, hết run tay, hết hồihộp; tim đập bình thường, mạch hết nhanh) nên phối hợp với phẫu thuật sẽ cho kếtquả điều trị tốt hơn. - Ung thư giáp: hướng xử trí là cắt hết thùy giáp bị ung thư, cắt eo giáp,nạo hạch. Nếu đã có di căn hạch thì cắt hết hai thùy, nạo hạch, chấp nhận suy giáptrạng và điều trị hỗ trợ bằng kích tố giáp suốt đời IV. Phòng ngừa và tránh tái phát - Biện pháp phòng ngừa tốt nhất đối với bướu giáp đơn thuần là ăn muốiiôt, ăn đồ biển. - Với bệnh basedow là bệnh tự miễn, có tính di truyền, nên tránh cuộc sốngquá căng thẳng (yếu tố thuận lợi cho bệnh phát triển) trong gia đình cũng nhưngoài xã hội; làm việc phải có thư giãn; không ăn thức ăn có nhiều iôt (cá biển, raucâu...), khi đã bị bệnh basedow thì không được ăn muối iôt. Lưu ý: không nên đi chữa bệnh bướu cổ ở những “thầy lang” theo kiểu dánthuốc lên vùng cổ có bướu; lấy kim châm vào bướu; dùng dao lam lể, rạch bướu;đắp lá vào bướu để “hút cùi” bướu. Tất cả các phương pháp này đều không điều trịđược bệnh mà còn gây hậu quả tai hại là nhiễm trùng vùng cổ, thậm chí gây apxe(có mủ) cổ. Biến chứng khác là gây dính tất cả những cấu trúc vùng cổ với nhauthành một lớp, đến khi bệnh nhân có chỉ định mổ sẽ gây chảy máu nhiều và ca mổkhó khăn hơn, nguy cơ bị tai biến khi mổ nhiều hơn như bệnh nhân bị khàn tiếng,câm sau mổ. Khám, siêu âm kiểm tra tuyến giápBS. TRẦN TRUNG SANGChuyên khoa Nội tiết – BV Hoàn Mỹ Sài Gòn ...