Danh mục

Các khái niệm về xác định giá trị tài sản trong kế toán

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 351.11 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhằm mục tiêu đo lường và trình bày các thông tin đối với tài sản trên Báo cáo tài chính (BCTC), trong lịch sử kế toán đã và đang tồn tại các quan điểm tính giá khác nhau. Mỗi quan điểm tính giá đều cần phải xác định các cơ sở giá chủ yếu, áp dụng các cơ sở giá này trong việc ghi nhận ban đầu, sau ghi nhận ban đầu và ghi nhận ảnh hưởng của việc tính giá trên BCTC.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các khái niệm về xác định giá trị tài sản trong kế toán CAÙC KHAÙI NIEÄM VEÀ XAÙC ÑÒNH GIAÙ TRÒ TAØI SAÛN TRONG KEÁ TOAÙN ThS. Nguyễn Hồng Nga* N hằm mục tiêu đo lường và trình bày các thông tin đối với tài sản trên Báo cáo tài chính (BCTC), trong lịch sử kế toán đã và đang tồn tại các quan điểm tính giá khác nhau. Mỗi quan điểm tính giá đều cần phải xác định các cơ sở giá chủ yếu, áp dụng các cơ sở giá này trong việc ghi nhận ban đầu, sau ghi nhận ban đầu và ghi nhận ảnh hưởng của việc tính giá trên BCTC. Trong quá trình sử dụng, các thuật ngữ như phương pháp tính giá, cơ sở đo lường, định giá, thẩm định giá hay đánh giá lại rất hay bị nhầm lẫn trong cách tiếp cận. Để hiểu rõ vấn đề này, trong bài viết sau tác giả sẽ đưa ra những nhận thức nhằm xác định ranh giới và bản chất của các khái niệm này. Từ khóa: Phương pháp tính giá, mô hình tính giá, cơ sở đo lường, định giá, đánh giá lại. Concepts on determining asset value in accounting Aiming at measuring and presenting information for assets on financial statements, in accounting history, there have been different points of view. Each method of pricing needs to determine the key price bases, apply these price bases in the initial recognition, after the initial recognition and its impact in the financial statements. In the process of use, terms such as pricing methods, basis of measurement, valuation, re-evaluation are often confused in the approach. In order to understand this issue, in the following article the author would like to clarify them to define the boundaries and nature of these concepts. Keywords: Pricing method, pricing model, basis of measurement, valuation and re-evaluation. 1. Cơ sở hình thành lý thuyết đo lường trong yêu cầu quan sát phải định lượng (nó có thể là định kế toán tính), do đó nó không nhất thiết phải quan sát. Ví dụ thu nhập không thể quan sát hay đo trực tiếp, nó Kế toán là nghệ thuật đo lường và truyền đạt được xác định thông qua đo lường tài sản, nợ phải thông tin tài chính. Thông tin dựa trên đo lường trả và xem xét sự vận động theo những quy tắc nhất mới dẫn đến thông tin giúp đưa ra dự đoán về lợi định (Heath , 1987, trang 2). nhuận hoặc các dự định trong tương lai, dự báo liên quan trong việc đánh giá rủi ro của công ty Dữ liệu có thể đo lường thông qua quan sát gián (Bierman, 1963, trang 501). Mục đích của đo lường tiếp, nó mang tính dự đoán. Dự đoán là một cách là cung cấp thông tin dưới dạng định lượng và sử khái niệm khác để nói điều gì đó về những gì có dụng thông tin cho mục đích so sánh (Sterling, thể xảy ra trong tương lai thông qua thiết lập thực 1979, tr. 74). Đây là quan điểm hẹp về đo lường vì nghiệm (Hornby et al., 1966, p. 760). Do đó, tính đòi hỏi phải dựa trên cơ sở quan sát. Quan sát trực năng phân biệt giữa dự báo và dự đoán không phải tiếp đòi hỏi đối tượng phải có thể cảm nhận được, là độ dài của khoảng thời gian có liên quan mà là trong khi quan sát gián tiếp là một suy luận giả mức độ chắc chắn liên quan. Dự báo và phân bổ thuyết liên quan đến các dữ liệu quan sát (Bunge, nên được loại trừ khỏi đo lường, bởi vì chúng thiếu 1967, trang 194). Theo quan điểm rộng thì không một liên kết vững chắc để quan sát. Tuy nhiên, dự * Khoa Kế toán Kiểm toán – Trường Đại học Thương mại NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 45 TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN đoán có thể được bao gồm trong đo lường, bởi vì hiện) hoặc tiềm năng. Trong trường hợp sau, chúng các dự đoán về nguyên tắc có thể quan sát được có thể là trực tiếp (giá trị có thể thực hiện) hoặc thông qua quan sát gián tiếp. không trực tiếp (giá trị được sử dụng). Giá trị thực Ngày nay, thuật ngữ định giá cải tiến đã dần tế và tiềm năng khác biệt đáng kể với nhau. Giá trị được thay thế bằng thuật ngữ đo lường. Griffin đầu vào và đầu ra thực tế có thể quan sát trực tiếp. et al. (1971, p. 3) đã nêu: “Định giá giá trị thường Chúng là giá thực hiện và giá trị của chúng có thể được sử dụng trong kế toán liên quan đến quá trình được đo lường theo nghĩa cổ điển bằng cách quan áp dụng các phương pháp xác định dẫn đến việc sát các trao đổi thị trường thực tế. Do đó, chỉ có ký kết các con số để thể hiện các tính chất kinh một số giá trị tiềm năng là các phép đo theo nghĩa tế. Định giá có thể được định nghĩa là quá trình cổ điển đòi hỏi các hiện tượng cơ bản phải có thể áp dụng các phương pháp xác định dẫn đến việc quan sát được, trực tiếp hoặc gián tiếp. Do đó, phải gán các con số để đại diện cho các đặc tính kinh tế có khả năng dự đoán, không chỉ dự báo, kết quả (Griffin và cộng sự, 1971, trang 3). thực tế của giá trị tiềm năng. Ví dụ, giá trị có thể thực hiện trực tiếp của sản phẩm thường có thể dự Một kỹ thuật định giá được định nghĩa là bộ đoán được và đáp ứng yêu cầu này. Tuy nhiên, giá máy có hệ thống bằng cách đánh giá việc thực hiện trị sử dụng của máy là một giá trị gián tiếp đòi hỏi một giá trị (Rescher, 1969, tr. 65 .6). Là tính chất ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: