Danh mục

Các loại hình học đầu thế kỉ XX

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 148.39 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Giai đoạn thứ hai trong lịch sử loại hình học là giai đoạn bắt đầu bằng Edward Sapir (1884 – 1939). Năm 1921, nhà ngôn ngữ học Mĩ E. Sapir cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng của ông "Language – An Introduction to the study of speech" (Ngôn ngữ – Nhập môn vào việc nghiên cứu lời nói). Trong tác phẩm này, Sapir đã đề cập đến hầu hết các vấn đề cơ bản nhất trong ngôn ngữ học, nhưng ông đặc biệt chú ý đến vấn đề phân loại ngôn ngữ. Ông nhận xét rằng các nhà...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các loại hình học đầu thế kỉ XX Loại hình học đầu thế kỉ XX* Giai đoạn thứ hai trong lịch sử loại hình học là giai đoạn bắt đầu bằng Edward Sapir (1884 – 1939). Năm 1921, nhà ngô n ngữ học Mĩ E. Sapir cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng của ông Language – An Introduction to the study of speech (Ngôn ngữ – Nhập môn vào việc nghiên cứu lời nói). Trong tác phẩm này, Sapir đã đề cập đến hầu hết các vấn đề c ơ bản nhất trong ngôn ngữ học, nhưng ông đặc biệt chú ý đến vấn đề phân loại ngôn ngữ. Ông nhận xét rằng các nhà đi trước đã đề xuất khá nhiều hướng phân loại, đã tìm ra được nhiều điểm đáng quý, đã có những nhận xét khá tinh vi, nh ưng chưa một bảng phân loại nào đáng được xem là hoàn chỉnh, có thể thoả mãn chúng ta. Theo ông, các bảng phân loại đều chưa nhằm cố gắng làm sao để bao gồm đủ các ngôn ngữ mà chúng ta đã biết, chưa nhằm nói lên được trọng vẹn các đặc tr ưng của chúng, mà chỉ mới cố gắng đưa chúng được vào trong những ô phân loại có ranh giới cứng nhắc. Phải có cơ sở phân loại khoa học, điều mà các công trình trước đây chưa bao giờ chỉ ra cho chúng ta thấy một cách thực r õ ràng. Làm sao mà có thể chỉ chọn một tiêu chuẩn duy nhất khi phân loại? Ngôn ngữ là một hiện tượng vô cùng phức tạp. Ông lại nhận thấy tr ước nay người ta chưa chú ý nhiều đến các ngôn ngữ xa lạ. Ng ười ta chỉ mới tổng kết trên cơ sở của những tiếng quen thuộc nh ư tiếng Latinh, tiếng Ả rập, tiếng Thổ nhĩ kì, tiếng Hán, chứ chưa tính đến những ngôn ngữ ít biết đế n, và cũng chưa nghĩ đến việc phải tiên đoán cả những trường hợp có thể gặp sau này. Theo Sapir người ta thường quá hay nặng về thiên hướng tìm những công thức đơn giản. Chia ra thành ngôn ngữ đơn lập, chắp dính, khuất chiết, và dầu có thêm vào đấy loại hình đa tổng hợp đi nữa, thì đó cũng chỉ là một cách chia thô sơ, vì các nét loại hình đó không đối kháng nhau một cách dứt khoát, có thể có ngôn ngữ vừa chắp dính vừa khuất chiết, hoặc vừa khuất chiết vừa đa tổng hợp, hoặc cả vừa đa tổng hợp vừa đơn lập. Nhược điểm cuối c ùng, và có lẽ là nhược điểm quan trọng nhất mà Sapir đã phát hiện ra trong công trình của các nhà loại hình học đi trước ông, là đa số thường có thiên hư ớng cho rằng chỉ loại hình của những ngôn ngữ mà họ quen thuộc – tiếng Hi lạp, tiếng La tinh – là loại hình mẫu mực. Họ thường coi loại hình này là đỉnh cao của sự phát triển ngôn ngữ loài người, còn các loại hình khác thì họ đều đánh giá thấp, coi nh ư những loại hình chậm tiến, đang ở trên đường hướng đến loại hình mẫu mực mà thôi. Sapir nhấn mạnh rằng bất kì một sự phân loại nào mà đã bị định kiến, bị tình cảm chủ quan của nhà nghiên cứu chi phối như thế, thì đều không thể khoa học được. Ông kêu gọi phải có thái độ lạnh l ùng khách quan, đối với tiếng Anh cũng như đối với tiếng Hốt -len-tốt, dầu rằng lạnh l ùng khách quan không có nghĩa là không thích thú. Và Sapir đã đề nghị một hướng phân loại mới, dựa trên những cơ sở mới. Ông vẫn giữ chủ trương coi từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ khi phân loại, nh ưng ông lại lấy làm xuất phát điểm cái m à ông gọi là bản chất các khái niệm đ ược diễn đạt ở trong ngôn ngữ, tức là mặt nội dung của từ và các thành t ố của nó. Theo ông, đây là cái tiêu chuẩn cơ bản nhất phải dùng ở trong sự phân loại theo loại hình học. Ông cũng có đề ra một số tiêu chuẩn phụ dùng để chia nhỏ các loại hình lớn đã được xác lập với tiêu chuẩn chính trên đây, như tiêu chuẩn kĩ thuật kết hợp với các th ành tố trong từ, hoặc tiêu chuẩn mức độ phức tạp của từ... * Sapir đã đề xuất 4 loại khái niệm đ ược diễn đạt ở trong từ của các ngôn ngữ: I. Khái niệm cụ thể, diễn đạt bằng căn tố (có ở trong mọi ngôn ngữ) II. Khái niệm phái sinh, diễn đạt bằng phụ tố cấu tạo từ (có thể có hoặc không có trong m ột ngôn ngữ) III. Khái niệm nửa cụ thể nửa quan hệ kiểu nh ư khái niệm về số của danh từ, thời gian của động từ... (loại khái niệm n ày cũng có thể vắng mặt trong ngôn ngữ nào đấy) IV. Khái niệm quan hệ, tức là khái niệm về những mối ràng buộc từ này với từ kia ở trong mệnh đề (loại khái niệm n ày bắt buộc phải có trong mọi ngôn ngữ). Căn cứ vào chỗ các khái niệm trên đây có lọt được vào trong từ hay không, Sapir đã tách thành 4 loại hình ngôn ngữ: Loại hình A (trong từ có các loại khái niệm I và IV) Loại hình B (trong từ có các loại khái niệm I, II và IV) Loại hình C (trong từ có các loại khái niệm I, III và IV) Loại hình D (trong từ có các loại khái niệm I, II, III và IV) Loại hình A là loại hình của những ngôn ngữ trong đó quan hệ cú pháp đ ược diễn đạt một cách tự nhiên còn căn tố thì không có khả năng biến đổi ý nghĩa bằng cách thêm phụ tố hoặc bằng cách biến đối bên trong. Đó là những ngôn ngữ quan hệ một cách thuần tuý. Theo Sapir, những ngôn ngữ n ày mang trong mình tính chất gần gũi nhất với cái mẫu lí t ưởng – nếu nói đến khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Sapir cũng nói l ướt qua rằng trong đa số các ngôn ngữ không ...

Tài liệu được xem nhiều: