Các loại nông cụ truyền thống trong canh tác nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Long thế kỷ XX
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 148.46 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết giới thiệu một số loại nông cụ truyền thống đã được sử dụng ở tỉnh Vĩnh Long trong thế kỷ XX, qua đó thấy được vai trò của chúng trong nền kinh tế nông nghiệp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các loại nông cụ truyền thống trong canh tác nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Long thế kỷ XX59CHUYÊN MỤCSỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁOCÁC LOẠI NÔNG CỤ TRUYỀN THỐNG TRONGCANH TÁC NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH LONGTHẾ KỶ XXNGUYỄN THU VÂNNông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của tỉnh Vĩnh Long. Vì vậycông cụ sản xuất là những vật dụng quan trọng, gần gũi và gắn liền với cuộcsống hàng ngày của người dân Vĩnh Long. Những dụng cụ này đã trở thành nétđặc trưng tiêu biểu của loại hình văn hóa nông nghiệp lúa nước, văn minh vùngsông nước. Bài viết giới thiệu một số loại nông cụ truyền thống đã được sử dụngở tỉnh Vĩnh Long trong thế kỷ XX, qua đó thấy được vai trò của chúng trong nềnkinh tế nông nghiệp.Tỉnh Vĩnh Long nằm ở trung tâm Đồngbằng sông Cửu Long, mang đậm nétđặc trưng của một vùng sông nướcmiệt vườn. Nằm giữa hai con sônglớn, sông Tiền và sông Hậu, VĩnhLong có nhiều sông rạch(1) chằng chịt,hàng năm đã mang lại cho nhữngcánh đồng nơi đây hàng triệu tấn phùsa. Ngoài các vùng đất ven sông màumỡ, tỉnh còn có nhiều cù lao sông nhưcù lao An Bình (trên sông Tiền), cù laoQuới Thiện(2), cù lao Năm Thôn (trênsông Cổ Chiên), cù lao Lục Sĩ(3), cùlao Mỹ Hòa (trên sông Hậu). Ưu thếNguyễn Thu Vân. Thạc sĩ. Trung tâm Sửhọc, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.về địa lý này khiến cho nông nghiệpVĩnh Long sản xuất được quanh nămvà phát triển mạnh. Từ rất sớm,những lưu dân Việt, Hoa, Khmer khiđặt chân đến vùng đất Vĩnh Long sinhsống đã biết khai thác các sản vậtthiên nhiên sẵn có, nhanh chóng thíchứng với điều kiện tự nhiên, cải biếnđất đai, cây trồng, vật nuôi, công cụsản xuất nhằm phục vụ cho đời sốngvà trao đổi hàng hóa. Phần lớn nhữnglưu dân từ đồng bằng sông Hồng, từNgũ Quảng di cư đến vùng Vĩnh Longđều sống bằng nông nghiệp. Đếnvùng đất mới định cư, những lưu dânmang theo các vật dụng, công cụ sảnxuất cùng những kinh nghiệm truyền60NGUYỄN THU VÂN – CÁC LOẠI NÔNG CỤ TRUYỀN THỐNGvthống về nghề nông đã có từ lâu đời.Bên cạnh đó, họ biết kế thừa nhữngcông cụ của người Khmer, tận dụngcác nguồn nguyên liệu sẵn có trongthiên nhiên để chế tạo, cải tiến ranhững công cụ phù hợp với sản xuấtở địa phương. Vào khoảng nhữngnăm 1860, khi người Pháp bắt đầuchiếm đóng (4), Vĩnh Long đã có diệntích trồng lúa lớn nhất so với các địaphương khác ở Nam Kỳ. Vào năm1868, diện tích đất trồng lúa của hạtVĩnh Long đã đạt đến 32.821ha, bằng12,3% diện tích đất lúa toàn đồngbằng sông Cửu Long và bằng 34,4%diện tích đất lúa ở vùng giữa sôngTiền và sông Hậu (Nguyễn Thế Nghĩa,Nguyễn Chiến Thắng (chủ biên),2001, tr. 216). Trong sự phát triển củanông nghiệp (đặc biệt là nghề trồnglúa), các công cụ sản xuất đã đóngmột vai trò không nhỏ.Về thổ nhưỡng, Vĩnh Long có ba loạiđất: đất đồng, đất biền và đất bưng.Đất đồng là vùng đất thấp trung bìnhrộng lớn; đất biền là đất thấp nằm dựamé sông rạch, bị ngập theo thủy triềuvà đất bưng là đất trũng thấp ngậpnước quanh năm, cỏ mọc rất dày vàcao (Huỳnh Tịnh Paulus Của, 1895, tr.54, 83, 279). Vĩnh Long có một sốbưng không trồng được lúa như BưngTrường (huyện Vũng Liêm); BưngSẩm xã Hòa Bình, Bưng Sen ở xãBình Ninh, bưng Cây Dong ở xã HòaHiệp (Tam Bình); còn lại đất đồng, đấtbiền rất thuận lợi cho sản xuất nôngnghiệp (Ban Tuyên giáo tỉnh VĩnhLong, 2003, tr. 49). Đầu thế kỷ XX, dođất ngập nước, cỏ lác bao phủ, đấtcao thấp khác nhau, dân cư chưanhiều(5), nên người dân chỉ chọnnhững chỗ dễ canh tác để làm ruộng.Sản xuất nông nghiệp có nhiều côngđoạn, mỗi một công đoạn thích ứngvới một số loại nông cụ. Có thể chianông cụ thành các nhóm: nông cụ làmđất và gieo cấy; nông cụ tưới tiêu;nông cụ thu hoạch; nông cụ ra hạt vàlàm sạch hạt lúa; nông cụ tách vỏtrấu; nông cụ vận chuyển; nông cụphơi sấy, bảo quản, chế biến. Dướiđây bài viết sẽ mô tả cụ thể các côngcụ và việc sử dụng để thấy vai trò củachúng trong quá trình khẩn hoang vàsản xuất nông nghiệp của người nôngdân.1. NÔNG CỤ LÀM ĐẤT VÀ GIEO CẤY- Phảng, cù nèo, bàn cào: Khi làmruộng trên vùng đất đồng, người nôngdân chủ yếu sử dụng cây phảng đểphát cỏ gieo hạt, cấy lúa và chỉ làmmột vụ lúa mùa/năm. Đầu tiên, ngườita phát cỏ một diện tích nhỏ đủ đểgieo mạ. Khi gieo mạ xong thì phát cỏ,dọn sạch toàn bộ ruộng và cỏ bờ đểcấy lúa. Do chức năng của phảng nhưvậy, nên đối với người nông dân khixưa, phảng có vai trò không thể thiếu.Cây phảng là nông cụ duy nhất trongkhâu làm đất ban đầu, chỉ cần “phátcỏ rồi cấy” nhưng thu hoạch rất cao.Trong sách Phủ biên tạp lục, Lê QuýĐôn (1964, tr. 148) ghi chép: “v TamLạch (tức Mỹ Tho), trại Bả Canh (tứcCao Lãnh), châu Định Viễn (tức CáiBè, Vĩnh Long), thì ruộng không cày,phát cỏ rồi cấy, cấy một hộc thóc thìgặt được 300 hộc, như thế thì ruộngTẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (207) 2015tốt có thể biết đượcv”. Tùy theo vùngđất, yêu cầu công việc, người nôngdân sử dụng loại phảng thích hợp.Cây phảng có nhiều cách gọi khácnhau: Ở Nam Bộ gọi là “trảm thảo”(chém cỏ) hay ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các loại nông cụ truyền thống trong canh tác nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Long thế kỷ XX59CHUYÊN MỤCSỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁOCÁC LOẠI NÔNG CỤ TRUYỀN THỐNG TRONGCANH TÁC NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH LONGTHẾ KỶ XXNGUYỄN THU VÂNNông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của tỉnh Vĩnh Long. Vì vậycông cụ sản xuất là những vật dụng quan trọng, gần gũi và gắn liền với cuộcsống hàng ngày của người dân Vĩnh Long. Những dụng cụ này đã trở thành nétđặc trưng tiêu biểu của loại hình văn hóa nông nghiệp lúa nước, văn minh vùngsông nước. Bài viết giới thiệu một số loại nông cụ truyền thống đã được sử dụngở tỉnh Vĩnh Long trong thế kỷ XX, qua đó thấy được vai trò của chúng trong nềnkinh tế nông nghiệp.Tỉnh Vĩnh Long nằm ở trung tâm Đồngbằng sông Cửu Long, mang đậm nétđặc trưng của một vùng sông nướcmiệt vườn. Nằm giữa hai con sônglớn, sông Tiền và sông Hậu, VĩnhLong có nhiều sông rạch(1) chằng chịt,hàng năm đã mang lại cho nhữngcánh đồng nơi đây hàng triệu tấn phùsa. Ngoài các vùng đất ven sông màumỡ, tỉnh còn có nhiều cù lao sông nhưcù lao An Bình (trên sông Tiền), cù laoQuới Thiện(2), cù lao Năm Thôn (trênsông Cổ Chiên), cù lao Lục Sĩ(3), cùlao Mỹ Hòa (trên sông Hậu). Ưu thếNguyễn Thu Vân. Thạc sĩ. Trung tâm Sửhọc, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.về địa lý này khiến cho nông nghiệpVĩnh Long sản xuất được quanh nămvà phát triển mạnh. Từ rất sớm,những lưu dân Việt, Hoa, Khmer khiđặt chân đến vùng đất Vĩnh Long sinhsống đã biết khai thác các sản vậtthiên nhiên sẵn có, nhanh chóng thíchứng với điều kiện tự nhiên, cải biếnđất đai, cây trồng, vật nuôi, công cụsản xuất nhằm phục vụ cho đời sốngvà trao đổi hàng hóa. Phần lớn nhữnglưu dân từ đồng bằng sông Hồng, từNgũ Quảng di cư đến vùng Vĩnh Longđều sống bằng nông nghiệp. Đếnvùng đất mới định cư, những lưu dânmang theo các vật dụng, công cụ sảnxuất cùng những kinh nghiệm truyền60NGUYỄN THU VÂN – CÁC LOẠI NÔNG CỤ TRUYỀN THỐNGvthống về nghề nông đã có từ lâu đời.Bên cạnh đó, họ biết kế thừa nhữngcông cụ của người Khmer, tận dụngcác nguồn nguyên liệu sẵn có trongthiên nhiên để chế tạo, cải tiến ranhững công cụ phù hợp với sản xuấtở địa phương. Vào khoảng nhữngnăm 1860, khi người Pháp bắt đầuchiếm đóng (4), Vĩnh Long đã có diệntích trồng lúa lớn nhất so với các địaphương khác ở Nam Kỳ. Vào năm1868, diện tích đất trồng lúa của hạtVĩnh Long đã đạt đến 32.821ha, bằng12,3% diện tích đất lúa toàn đồngbằng sông Cửu Long và bằng 34,4%diện tích đất lúa ở vùng giữa sôngTiền và sông Hậu (Nguyễn Thế Nghĩa,Nguyễn Chiến Thắng (chủ biên),2001, tr. 216). Trong sự phát triển củanông nghiệp (đặc biệt là nghề trồnglúa), các công cụ sản xuất đã đóngmột vai trò không nhỏ.Về thổ nhưỡng, Vĩnh Long có ba loạiđất: đất đồng, đất biền và đất bưng.Đất đồng là vùng đất thấp trung bìnhrộng lớn; đất biền là đất thấp nằm dựamé sông rạch, bị ngập theo thủy triềuvà đất bưng là đất trũng thấp ngậpnước quanh năm, cỏ mọc rất dày vàcao (Huỳnh Tịnh Paulus Của, 1895, tr.54, 83, 279). Vĩnh Long có một sốbưng không trồng được lúa như BưngTrường (huyện Vũng Liêm); BưngSẩm xã Hòa Bình, Bưng Sen ở xãBình Ninh, bưng Cây Dong ở xã HòaHiệp (Tam Bình); còn lại đất đồng, đấtbiền rất thuận lợi cho sản xuất nôngnghiệp (Ban Tuyên giáo tỉnh VĩnhLong, 2003, tr. 49). Đầu thế kỷ XX, dođất ngập nước, cỏ lác bao phủ, đấtcao thấp khác nhau, dân cư chưanhiều(5), nên người dân chỉ chọnnhững chỗ dễ canh tác để làm ruộng.Sản xuất nông nghiệp có nhiều côngđoạn, mỗi một công đoạn thích ứngvới một số loại nông cụ. Có thể chianông cụ thành các nhóm: nông cụ làmđất và gieo cấy; nông cụ tưới tiêu;nông cụ thu hoạch; nông cụ ra hạt vàlàm sạch hạt lúa; nông cụ tách vỏtrấu; nông cụ vận chuyển; nông cụphơi sấy, bảo quản, chế biến. Dướiđây bài viết sẽ mô tả cụ thể các côngcụ và việc sử dụng để thấy vai trò củachúng trong quá trình khẩn hoang vàsản xuất nông nghiệp của người nôngdân.1. NÔNG CỤ LÀM ĐẤT VÀ GIEO CẤY- Phảng, cù nèo, bàn cào: Khi làmruộng trên vùng đất đồng, người nôngdân chủ yếu sử dụng cây phảng đểphát cỏ gieo hạt, cấy lúa và chỉ làmmột vụ lúa mùa/năm. Đầu tiên, ngườita phát cỏ một diện tích nhỏ đủ đểgieo mạ. Khi gieo mạ xong thì phát cỏ,dọn sạch toàn bộ ruộng và cỏ bờ đểcấy lúa. Do chức năng của phảng nhưvậy, nên đối với người nông dân khixưa, phảng có vai trò không thể thiếu.Cây phảng là nông cụ duy nhất trongkhâu làm đất ban đầu, chỉ cần “phátcỏ rồi cấy” nhưng thu hoạch rất cao.Trong sách Phủ biên tạp lục, Lê QuýĐôn (1964, tr. 148) ghi chép: “v TamLạch (tức Mỹ Tho), trại Bả Canh (tứcCao Lãnh), châu Định Viễn (tức CáiBè, Vĩnh Long), thì ruộng không cày,phát cỏ rồi cấy, cấy một hộc thóc thìgặt được 300 hộc, như thế thì ruộngTẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (207) 2015tốt có thể biết đượcv”. Tùy theo vùngđất, yêu cầu công việc, người nôngdân sử dụng loại phảng thích hợp.Cây phảng có nhiều cách gọi khácnhau: Ở Nam Bộ gọi là “trảm thảo”(chém cỏ) hay ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí Khoa học Xã hội Nông cụ truyền thống Canh tác nông nghiệp Tỉnh Vĩnh Long thế kỷ XX Kinh tế nông nghiệpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
8 trang 255 0 0 -
5 trang 123 0 0
-
124 trang 110 0 0
-
18 trang 106 0 0
-
Bài giảng Kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại: Chương 1
52 trang 94 1 0 -
68 trang 92 0 0
-
Giáo trình Kinh tế phát triển (Nghề: Kế toán doanh nghiệp) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
117 trang 79 0 0 -
Cơ sở lý luận_ chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong ngành thủy sản 1
30 trang 77 0 0 -
Bài giảng Kinh tế nông nghiệp (Dùng cho các lớp cao học) - ĐH Thủy lợi
174 trang 70 0 0 -
81 trang 61 0 0