tiếp nối phần 1, phần 2 giới thiệu về dã sử và chuyện kể về hoàng tộc nhà lý vì bên cạnh các nhân vật lịch sử, một số nhân vật thời kỳ hùng vương sống trong tâm thức dân gian cũng tạo nên một huyền sử đáng được ghi nhận như là: hoàng tử lý nhật quang, thái hâu linh nhân, phò mã lê thuận tông, phò mã dương tự minh, minh bảo phu nhân, công chúa cây sao...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
các vị vua và hoàng tộc triều lý: phần 2 - nxb hồng ĐứcổÌtíưậ) y*)ịềUy Minh vương Lý Nhật Quang, con trai thứ 8 củaLý Thái Tổ - Lý Công uẩn. Tương truyền,từ thuở thiếuthời hoàng tử được nhà vua kèm cặp để sớm trở thànhrường cột của nước nhà. Từ năm 1039 hoàng tử đượctriều đình phái vào Nghệ An trông coi việc tô thuế vàsau đó được chính thức bổ nhiệm làm Tri châu, tướchiệu là Uy Minh hầu Lý Nhật Quang.Lúc này, Nghệ An là một vùng biên ải phía Nam củanước Đại Việt, việc quản lý còn lỏng lẻo. Nhiều cuộc nổidậy ở địa phương có tính chất phản loạn, gây sự phiềnnhiễu cho lứiân dân, triều đình phải nhiều phen dẹploạn. Nhưng sau khi Lý Nhật Quang được cử làm Trichâu, tình hình ở Nghệ An dần dần ổn định, kỷ cươngphép nước được lập lại. Lý Nhật Quang đã cho làm sổsách thống kê hộ khẩu, nhân đinh. Những biện phápquản lý xã hội của Lý Nhật Quang cùng với sự độ lượngvà tư tưởng thân dân của ông dần dần đã cảm hoá và quyphục được tất cả mọi tầng lớp nhân dân, làm cho vùngđất vốn phức tạp đã trở nên thuần hậu và thống nhất.Khi ấy Lý Thái Tông đã có ý định đánh chiếm ChiêmThành, vua giao Lý Nhật Quang chuẩn bị làm mộthoành doanh dọc Sông Bà Hoà (nay thuộc huyện TĩnhGia, Tỉnh Thanh Hoá) gọi là trại Bà Hoà. Năm 1044, LýThái Tông cất quân đánh Chiêm Thành, nhờ có Trại BàHoà kiên cố và đầy đủ lương thực, quân sĩ yên tâm chiếnđấu. Trong trận chiến lớn bên sông Ngũ Bồ, tướngQuách Gia Di chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Khi vuaLý Thái Tông khải hoàn đến trại Bà Hoà, Lý Nhật Quangnghênh đón nhà vua và quân sĩ trọng thể, Lý NhậtQuang được vua phong từ tước hầu lên tước vương.Lý Nhật Quang hết sức coi trọng việc phát triển kinhtế, khuyến khích, hướng dẫn nhân dân mở mang nghềnghiệp, khai thác mọi tiềm năng của vùng đất xứ Nghệ.Cùng với việc chiêu dân, khai hoang, lập ấp, ông còndạy cho dân chúng nghề nông tang, dệt lụa, dệt vải... LýNhật Quangcòn chọn vùng Bạch Đường (nay gồm 3 xã;Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn - huyện Đô Lương)- là nơicó vị trí trung tâm rủa cả châu, công, thủ đều thuận lợiđể xây dựng lỵ sở. Lý Nhật Quang đã ban hành và chothực hiện nhiều chính sách tiến bộ và táo bạo để mởmang phát triển sản xuất. Các vùng Khe Bố, Cự Đồn(Con Cuông), Nam Hoa (Nam Đàn), Hoàng Mai (QuỳnhLưu), Công Trung (Yên Thành), Vinh, Nghi Xuân, KỳAnh (Hà Tĩnh)... đều do ông chiêu dân lập ấp và sửdụng tù binh để khai khẩn đất hoang.Ông đã cho mở 2 con đường thượng đạo: 1 từ ĐôLương ra Thanh Hoá rồi ra Thăng Long, 1 từ Đô Lươnglên Kỳ Sơn. ô n g cho đào và nạo vét các đoạn sông ĐaCái ở Hưng Nguyên, kênh sắt ở Nghi Lộc; kênh Son,kênh Dâu ở Quỳnh Lưu. ông còn khởi xướng việc đắpđê sông Lam. Không những quan tâm đến đời sống vậtchất cho dân, ồ n g còn rất quan tâm đến đời sống vănhoá tinh thần của nhân dân, cho xây dựng nhiều chùathờ Phật để nhân dân đến sinh hoạt văn hoá tâm linh.Có thể nói, những việc làm có tính chất mở đầu ở mộtvùng biên viễn của Lý Nhật Quang đã đạt đến tầm cỡcủa một nhà chiến lược, vừa an dân, vừa tạo dựng tiềmnăng, thế mạnh để giữ gìn bờ cõi.Tóm lại, trong thời gian 16 năm từ năm 1039 đến1055, dưới hai triều Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông, UyMinh vương Lý Nhật Quang đã cống hiến cả cuộc đờicho sự nghiệp phục hưng, ông đã lập công lớn đối vớitriều đình và nhân dân xứ Nghệ. Tri nhậm một miềnviễn biên lại là địa đầu phía Nam Đại Việt, một nơi đầygian nan nhưng Lý Nhật Quang vẫn giữ vững được bờcõi, ban bố được chính lệnh, thu phục được nhân tâm.Ông đã phát triển mạnh mẽ sản xuất ở vùng này, biếnvùng biên ải thành căn cứ địa vững chắc, hậu thuẫnđáng tin cậy cho nhiều triều đại về sau.Uy minh vương Lý Nhật Quang mất năm 1058. Saukhi ông mất, nhân dân xứ Nghệ đã xây dựng hàng chụcngôi đền để hương khói. Đền Quả Sơn tại xã Bồi Sơn làđền chính được dưng nên để tưởng nhớ công ơn ông.Thần tích đền Quả Sơn đã ghi rõ: Ngài ở châu 19 năm,trừng trị kẻ gian, khen thưởng người lành, khai khẩn đấthoang, chiêu mộ lưu dân, bọn vô lại phải im hơi, ngườidân về với Ngài được yên nghiệp. Ngài thường qua lạivùng này, vùng khác, dạy nghề làm ruộng, trồng cây cối,nuôi gia súc, có nhiều chính sách lợi cho dân, làm chonhân dân đoàn kết. Người dần đến kiện tụng thì lấyliêm, sỹ, lễ, nghĩa giảng dạy làm cho tự giác ngộ, ai nấyđều cảm hoá, không bàn đến chuyện kiện cáo nữa. Mọingười đều gọi Ngài là Triệu Công.Tương truyền vua Lý Thái Tổ và Trịnh Minh, hoànghậu họ Lê sinh hạ được tám hoàng tử, trong số đó, hoàngtử thứ tám sinh giờ ngọ, ngày mồng bảy tháng năm canhthân là khôi ngô tuấn tú hơn cả, được vua cha đặt tên làLý Hoảng hiệu là Nhật Quang. Năm mười ba tuổi, hoàngtử đã tỏ ra là một con người trung hiếu, dũng cảm. Nămmười bảy tuổi thì tinh thông văn chương hơn hẳn mọingười. Năm Càn phù hữu đạo thứ nhất, vua phái hoàngtử đi coi việc tuyển cử hiền tài ở trấn Thanh Hoá tức là đấtChâu Ái thời xưa. Hoàng tử giữ chức vụ không mảy maylầm lỗi, tiếng vang đến triều đình.Lý Thái Tông lên ngôi giao cho Lý Hoảng làm trichâu Nghệ An, ...