Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn cấu trúc vốn của các doanh nghiệp phi tài chính giai đoạn 2011-2018
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 248.04 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trên thế giới nói chung và trong nước nói riêng đã có rất nhiều nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2018 dù có rất nhiều sự kiện kinh tế có sức ảnh hưởng lớn ảnh hưởng đến hoạt động doanh nghiệp như các hiệp định thương mại quốc tế AEC, TPP, Brexit, sự thay đổi chính trị tại Mỹ… nhưng lại chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn cấu trúc vốn của các doanh nghiệp phi tài chính giai đoạn 2011-2018 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN CẤU TRÚC VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2011-2018 ThS. Nguyễn Ngọc Thảo Trang ThS. Vũ Thanh Tùng Trường Đại học Tài chính Marketing Tóm tắt Cấu trúc vốn là sự kết hợp của nợ ngắn hạn thường xuyên, nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường, được sử dụng để tài trợ cho quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Một cấu trúc vốn được gọi là tối ưu phải bảo đảm tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn, tối thiểu hóa rủi ro và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Chính vì vậy, trên thế giới nói chung và trong nước nói riêng đã có rất nhiều nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2018 dù có rất nhiều sự kiện kinh tế có sức ảnh hưởng lớn ảnh hưởng đến hoạt động doanh nghiệp như các hiệp định thương mại quốc tế AEC, TPP, Brexit, sự thay đổi chính trị tại Mỹ… nhưng lại chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Đó là lý do nhóm tác giả quyết định khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn cấu trúc vốn của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn 2011-2018, từ đó các nhà quản trị doanh nghiệp có thể xem như một nguồn tham khảo cho các quyết định tài chính của mình. Từ khóa: Cấu trúc vốn, cấu trúc vốn doanh nghiệp, phi tài chính, lựa chọn cấu trúc vốn. 1. Cơ sở lý thuyết về cấu trúc vốn Các lý thuyết hiện đại về cấu trúc vốn bắt đầu với những bài báo nổi tiếng của Modigliani và Miller (M&M) công bố vào năm 1958. Trong bài báo này M&M ủng hộ phương pháp tiếp cận bằng thu nhập hoạt động ròng, cho rằng giá trị thị trường công ty độc lập hoàn toàn với cấu trúc vốn khi có cùng mức độ rủi ro. Dựa trên những giả định của thị trường vốn hoàn hảo, không tồn tại thuế, điều này được cho không phù hợp trong thực tế. Vì vậy định đề đã được chỉnh sửa vào năm 1963, kết hợp ảnh hưởng của thuế và cho rằng giá trị doanh nghiệp có sử dụng nợ bằng giá trị doanh nghiệp không sử dụng nợ ở cùng một dạng rủi ro cộng với khoản lợi tức đến từ việc sử dụng nợ (Modigliani và Miller 1963). Năm 1977, Miller lại cho rằng cấu trúc vốn không liên quan với cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thu nhập cá nhân. Jenshen và Meckling phát triển lý thuyết cấu trúc vốn dựa trên chi phí đại diện vào năm 1976. Họ cho rằng công ty phải gánh chịu hai loại chi phí đại diện: chi phí liên quan đến cổ đông bên ngoài và chi phí liên quan đến sự hiện diện của nợ trong cơ cấu vốn. Đầu tiên, tổng chi phí đại diện giảm và sau khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu đạt đến một mức độ nhất định, chi phí lại tăng. Chi phí đại diện trở thành thước đo tối thiểu cho tỷ lệ nhất định vốn chủ sở hữu bên ngoài. Vì vậy lý thuyết này đòi hỏi có khái niệm cơ cấu vốn tối ưu. Hai bộ lý thuyết cấu trúc vốn được phát triển trong nửa sau thập niên 1970 và nửa đầu năm 1980. Ross đã phát triển tập hợp các lý thuyết cấu trúc vốn dựa trên sự bất cân xứng thông tin vào năm 1977, Myers và Majluf phát triển các phần tiếp theo vào năm 1984. Phần đầu tiên phản biện rằng việc lựa chọn cấu trúc vốn doanh nghiệp sẽ phát tín hiệu cho những nhà đầu tư bên ngoài về tình hình nội bộ công ty và phần lý thuyết thứ hai cho rằng cấu trúc vốn được thiết kế để giảm thiểu sự kém hiệu quả trong quyết định đầu tư do thông tin bất cân xứng (Harris và Ravis 1991). Trong quá trình phát triển của lý thuyết cấu trúc vốn, Myers đã xây dựng và đưa ra lý thuyết trật tự phân hạng vào năm 1984, ban đầu được phát triển bởi Donaldson năm 1961. Theo lý thuyết này, những nhà quản lý ủng hộ mạnh mẽ tài trợ nội bộ là một nguồn vốn mới nhằm loại trừ các nguồn vốn bên ngoài thỉnh thoảng dôi dư không cần thiết. Nó cũng giải thích mối quan hệ ngược chiều giữa lợi nhuận và tỷ lệ nợ, đồng thời cho rằng không có cấu trúc vốn mục tiêu. Trong lĩnh vực tài chính, khi có nhu cầu vốn sẽ ưu tiên tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, sau đấy là 126 vay nợ và cuối cùng là tài trợ vốn bằng cách phát hành cổ phiếu (Martin và những người khác 1988). Do đó lý thuyết trật tự phân hạng được xem như cơ sở để giải thích các hành vi tài trợ của nhà quản lý. 2. Mô hình nghiên cứu Các nghiên cứu lý thuyết trên cho rằng tồn tại một cấu trúc vốn tối ưu cho doanh nghiệp, ở cấu trúc vốn đó, lợi ích của lá chắn thuế bù trừ tốt nhất cho các thiệt hại mà việc gia tăng vay nợ mang lại như: chi phí khốn khó tài chính, chi phí đại diện. Về dữ liệu nghiên cứu là mô hình dữ liệu dạng bảng (Data Panel) các chỉ số tài chính của 95 công ty phi tài chính niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn 2011-2018. Dựa vào các nghiên cứu của Mehdi Janbaz, Joshua Abor (2008), Keshar J. Baral (2003), Wanrapee Banchuenvijit, Jean J. Chen (2003), Fakher et al. (2005), Zafar et al. và những yếu tố đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam, bài nghiên cứu đưa ra mô hình hồi quy như sau để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn : D/A = β0 + β1 (Tuổi) + β2 (Quy mô) + β3 (Tỷ lệ tăng trưởng) + β4 (Thuế) + β5 (Lợi nhuận) + β6 (Cơ cấu tài sản) + β7 (Tỷ lệ vốn nhà nước) + ε Các biến được đưa vào mô hình nghiên cứu bao gồm: tỷ suất tổng nợ trên tổng tài sản được đại diện cho nhân tố cấu trúc vốn. Các biến độc lập của mô hình gồm: AGE (tuổi thọ doanh nghiệp), SIZE (quy mô doanh nghiệp), SALE_GROW (tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp), EFFECT_TAX (thuế suất hiệu lực thuế thu nhập doanh nghiệp), ROA (khả năng sinh lời của doanh nghiệp), TANG (cấu trúc tài sản của doanh nghiệp), STATE (tính sở hữu nhà nước của doanh nghiệp). Biến số phụ thuộc Y : D/A = Tổng nợ / Tổng tài sản năm 2018 Biến số độc lập X1 : Tuổi công ty (AGE) X1 được tính bằng số năm kể từ khi công ty trở thành công ty cổ phần đến năm 2018. Theo lý thuyết, tu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn cấu trúc vốn của các doanh nghiệp phi tài chính giai đoạn 2011-2018 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN CẤU TRÚC VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2011-2018 ThS. Nguyễn Ngọc Thảo Trang ThS. Vũ Thanh Tùng Trường Đại học Tài chính Marketing Tóm tắt Cấu trúc vốn là sự kết hợp của nợ ngắn hạn thường xuyên, nợ dài hạn, cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường, được sử dụng để tài trợ cho quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Một cấu trúc vốn được gọi là tối ưu phải bảo đảm tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn, tối thiểu hóa rủi ro và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Chính vì vậy, trên thế giới nói chung và trong nước nói riêng đã có rất nhiều nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2018 dù có rất nhiều sự kiện kinh tế có sức ảnh hưởng lớn ảnh hưởng đến hoạt động doanh nghiệp như các hiệp định thương mại quốc tế AEC, TPP, Brexit, sự thay đổi chính trị tại Mỹ… nhưng lại chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Đó là lý do nhóm tác giả quyết định khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn cấu trúc vốn của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn 2011-2018, từ đó các nhà quản trị doanh nghiệp có thể xem như một nguồn tham khảo cho các quyết định tài chính của mình. Từ khóa: Cấu trúc vốn, cấu trúc vốn doanh nghiệp, phi tài chính, lựa chọn cấu trúc vốn. 1. Cơ sở lý thuyết về cấu trúc vốn Các lý thuyết hiện đại về cấu trúc vốn bắt đầu với những bài báo nổi tiếng của Modigliani và Miller (M&M) công bố vào năm 1958. Trong bài báo này M&M ủng hộ phương pháp tiếp cận bằng thu nhập hoạt động ròng, cho rằng giá trị thị trường công ty độc lập hoàn toàn với cấu trúc vốn khi có cùng mức độ rủi ro. Dựa trên những giả định của thị trường vốn hoàn hảo, không tồn tại thuế, điều này được cho không phù hợp trong thực tế. Vì vậy định đề đã được chỉnh sửa vào năm 1963, kết hợp ảnh hưởng của thuế và cho rằng giá trị doanh nghiệp có sử dụng nợ bằng giá trị doanh nghiệp không sử dụng nợ ở cùng một dạng rủi ro cộng với khoản lợi tức đến từ việc sử dụng nợ (Modigliani và Miller 1963). Năm 1977, Miller lại cho rằng cấu trúc vốn không liên quan với cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thu nhập cá nhân. Jenshen và Meckling phát triển lý thuyết cấu trúc vốn dựa trên chi phí đại diện vào năm 1976. Họ cho rằng công ty phải gánh chịu hai loại chi phí đại diện: chi phí liên quan đến cổ đông bên ngoài và chi phí liên quan đến sự hiện diện của nợ trong cơ cấu vốn. Đầu tiên, tổng chi phí đại diện giảm và sau khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu đạt đến một mức độ nhất định, chi phí lại tăng. Chi phí đại diện trở thành thước đo tối thiểu cho tỷ lệ nhất định vốn chủ sở hữu bên ngoài. Vì vậy lý thuyết này đòi hỏi có khái niệm cơ cấu vốn tối ưu. Hai bộ lý thuyết cấu trúc vốn được phát triển trong nửa sau thập niên 1970 và nửa đầu năm 1980. Ross đã phát triển tập hợp các lý thuyết cấu trúc vốn dựa trên sự bất cân xứng thông tin vào năm 1977, Myers và Majluf phát triển các phần tiếp theo vào năm 1984. Phần đầu tiên phản biện rằng việc lựa chọn cấu trúc vốn doanh nghiệp sẽ phát tín hiệu cho những nhà đầu tư bên ngoài về tình hình nội bộ công ty và phần lý thuyết thứ hai cho rằng cấu trúc vốn được thiết kế để giảm thiểu sự kém hiệu quả trong quyết định đầu tư do thông tin bất cân xứng (Harris và Ravis 1991). Trong quá trình phát triển của lý thuyết cấu trúc vốn, Myers đã xây dựng và đưa ra lý thuyết trật tự phân hạng vào năm 1984, ban đầu được phát triển bởi Donaldson năm 1961. Theo lý thuyết này, những nhà quản lý ủng hộ mạnh mẽ tài trợ nội bộ là một nguồn vốn mới nhằm loại trừ các nguồn vốn bên ngoài thỉnh thoảng dôi dư không cần thiết. Nó cũng giải thích mối quan hệ ngược chiều giữa lợi nhuận và tỷ lệ nợ, đồng thời cho rằng không có cấu trúc vốn mục tiêu. Trong lĩnh vực tài chính, khi có nhu cầu vốn sẽ ưu tiên tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, sau đấy là 126 vay nợ và cuối cùng là tài trợ vốn bằng cách phát hành cổ phiếu (Martin và những người khác 1988). Do đó lý thuyết trật tự phân hạng được xem như cơ sở để giải thích các hành vi tài trợ của nhà quản lý. 2. Mô hình nghiên cứu Các nghiên cứu lý thuyết trên cho rằng tồn tại một cấu trúc vốn tối ưu cho doanh nghiệp, ở cấu trúc vốn đó, lợi ích của lá chắn thuế bù trừ tốt nhất cho các thiệt hại mà việc gia tăng vay nợ mang lại như: chi phí khốn khó tài chính, chi phí đại diện. Về dữ liệu nghiên cứu là mô hình dữ liệu dạng bảng (Data Panel) các chỉ số tài chính của 95 công ty phi tài chính niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn 2011-2018. Dựa vào các nghiên cứu của Mehdi Janbaz, Joshua Abor (2008), Keshar J. Baral (2003), Wanrapee Banchuenvijit, Jean J. Chen (2003), Fakher et al. (2005), Zafar et al. và những yếu tố đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam, bài nghiên cứu đưa ra mô hình hồi quy như sau để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn : D/A = β0 + β1 (Tuổi) + β2 (Quy mô) + β3 (Tỷ lệ tăng trưởng) + β4 (Thuế) + β5 (Lợi nhuận) + β6 (Cơ cấu tài sản) + β7 (Tỷ lệ vốn nhà nước) + ε Các biến được đưa vào mô hình nghiên cứu bao gồm: tỷ suất tổng nợ trên tổng tài sản được đại diện cho nhân tố cấu trúc vốn. Các biến độc lập của mô hình gồm: AGE (tuổi thọ doanh nghiệp), SIZE (quy mô doanh nghiệp), SALE_GROW (tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp), EFFECT_TAX (thuế suất hiệu lực thuế thu nhập doanh nghiệp), ROA (khả năng sinh lời của doanh nghiệp), TANG (cấu trúc tài sản của doanh nghiệp), STATE (tính sở hữu nhà nước của doanh nghiệp). Biến số phụ thuộc Y : D/A = Tổng nợ / Tổng tài sản năm 2018 Biến số độc lập X1 : Tuổi công ty (AGE) X1 được tính bằng số năm kể từ khi công ty trở thành công ty cổ phần đến năm 2018. Theo lý thuyết, tu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tài chính toàn diện Cấu trúc vốn Doanh nghiệp phi tài chính Thương mại quốc tế Doanh nghiệp phi tài chính niêm yếtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Luật thương mại quốc tế (Phần 2): Phần 1
257 trang 395 6 0 -
4 trang 364 0 0
-
71 trang 222 1 0
-
14 trang 171 0 0
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính toàn diện
3 trang 171 0 0 -
Một số hạn chế trong chính sách thuế
3 trang 167 0 0 -
Giáo trình Quản trị xuất nhập khẩu: Phần 1 - GS. TS Đoàn Thị Hồng Vân
288 trang 159 0 0 -
Một số điều luật về Thương mại
52 trang 158 0 0 -
trang 126 0 0
-
CÁC QUY TẮC VÀ THỰC HÀNH THỐNG NHẤT VỀ TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
29 trang 120 0 0