Thông tin tài liệu:
Trẻ ăn sữa bột có nguy cơ còi xương cao hơn trẻ bú mẹ. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào sữa mẹ thì chưa đủ để phòng còi xương vì hàm lượng vitamin D trong sữa mẹ khá thấp (30-60 đơn vị/lít). Vì vậy, trẻ cần tiếp xúc đủ với ánh sáng mặt trời. Còi xương là bệnh rất phổ biến ở trẻ dưới 3 tuổi tại các thành phố công nghiệp vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Việc bổ sung vitamin D vào chế độ ăn của trẻ đã có tác dụng dự phòng và giảm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các yếu tố gây bệnh còi xương Các yếu tố gây bệnh còi xươngTrẻ ăn sữa bột có nguy cơ còi xương cao hơn trẻ bú mẹ. Tuynhiên, nếu chỉ dựa vào sữa mẹ thì chưa đủ để phòng còixương vì hàm lượng vitamin D trong sữa mẹ khá thấp (30-60đơn vị/lít). Vì vậy, trẻ cần tiếp xúc đủ với ánh sáng mặt trời.Còi xương là bệnh rất phổ biến ở trẻ dưới 3 tuổi tại các thànhphố công nghiệp vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Việc bổ sungvitamin D vào chế độ ăn của trẻ đã có tác dụng dự phòng vàgiảm tỷ lệ mắc bệnh. Tuy nhiên, đây vẫn là vấn đề sức khỏecộng đồng rất quan trọng ở nhiều quốc gia.Nguyên nhân còi xương là thiếu vitamin D. Việc thiếu chất nàysẽ làm giảm hấp thu canxi ở ruột, dẫn tới hạ canxi máu, gây rốiloạn quá trình khoáng hóa xương.Vitamin D tan trong chất béo và có trong thức ăn động vật nhưgan, cá, trứng, sữa... Tuy nhiên, nguồn cung cấp chủ yếu chínhlà quá trình tự tổng hợp của cơ thể. Dưới tác động quang hóacủa tia cực tím ánh sáng mặt trời, tiền vitamin D ở dưới da sẽchuyển thành vitamin D.Các yếu tố nguy cơ còi xương- Thiếu ánh sáng mặt trời: Nhiều trẻ bị còi xương chỉ vì cha mẹgiữ gìn quá kỹ hoặc không có điều kiện cho tắm nắng (do yếu tốđịa lý khí hậu, mùa đông, vùng núi sương mù, nhà ở chật chội, ônhiễm môi trường...).- Tình trạng thiếu hụt nặng vitamin D của người mẹ trong thờigian mang thai: Điều này có thể phá vỡ cân bằng canxi nội mô ởbào thai và gây rối loạn quá trình khoáng hóa xương, dẫn đếncòi xương từ trong bào thai. Hàm lượng vitamin D trong sữa mẹthấp, nên trẻ sơ sinh chủ yếu dựa vào lượng vitamin D dự trữ thuđược qua rau thai để đáp úng nhu cầu cơ thể. Vì vậy, việc ngườimẹ thiếu vitamin D trong thời gian mang thai là yếu tố nguy cơcao gây còi xương sớm ở trẻ sơ sinh.- Chế độ ăn của trẻ thiếu cả vitamin D và canxi, tỷ lệcanxi/photpho thấp. Chế độ ăn nhiều phytat (có nhiều trong tinhbột), oxalat (có nhiều trong rau) và chất xơ cũng làm giảm hấpthu canxi.- Trẻ suy dinh dưỡng: Một số công trình nghiên cứu cho thấy,còi xương không xảy ra riêng lẻ mà đi kèm với suy dinh dưỡng,thiếu vitamin A, thiếu máu. Trẻ suy dinh dưỡng thường hay rốiloạn hấp thu các chất, kể cả vitamin D và muối khoáng; đồngthời thiếu hụt enzym chuyển hóa vitamin D. Ngược lại, tìnhtrạng thiếu vitamin D cũng sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể,tăng cảm nhiễm với vi khuẩn, do đó tăng nguy cơ suy dinhdưỡng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, trẻ suy dinh dưỡng cónguy cơ còi xương cao hơn so với trẻ bình thường.- Trẻ có cân nặng lúc đẻ thấp (dưới 2.500g) có nguy cơ còixương cao hơn trẻ có cân nặng lúc đẻ bình thường. Nguyên nhânlà cơ thể không dự trữ đủ muối khoáng và vitamin D trong thờikỳ bào thai, đồng thời hệ thống men tham gia vào chuyển hóavitamin D còn yếu.- Có hội chứng kém hấp thu: Tình trạng thiếu vitamin D dễ xảyra ở những trẻ có hội chứng này. Các bệnh tiêu chảy kéo dài,nhiễm ký sinh trùng đường ruột, viêm gan tắc mật đều có ảnhhưởng đến hấp thu vitamin D và tăng nguy cơ còi xương.Để dự phòng còi xương, trong thời gian có thai và cho conbú, người mẹ nên dành thời gian tắm nắng, đi dạo ngoài trời.Nên ăn uống hợp lý, chú ý thực phẩm giàu vitamin D, canxi đểphòng tránh còi xương sớm cho trẻ từ trong bào thai và trongnhững tháng đầu sau đẻ.Cho trẻ bú mẹ ngay sau sinh, bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu ,sau đó cho ăn bổ sung. Chú ý cho ăn dầu mỡ, thực hiện tô màubát bột. Hằng ngày phải cho trẻ tắm nắng 5-10 phút để có đủvitamin D.Bổ sung vitamin D 400 đơn vị/ngày cho trẻ đẻ non, đẻ thấp cân.Một trong những biện pháp phòng bệnh còi xương là tăng cườngvitamin D vào thực phẩm cho bà mẹ và trẻ em.