Danh mục

Cách chữa bệnh Viêm Xoang bằng Y học cổ truyền

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 159.21 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Theo y học cổ truyền, viêm xoang mãn tính là một dạng hư hỏa. Do đó, điều trị viêm xoang không chỉ nhằm giải quyết việc viêm nhiễm tại chỗ mà chủ yếu là phải bổ âm để tàng dương. TRIỆU CHỨNG Viêm xoang là tình trạng viêm nhiễm ở một hoặc nhiều khoang rỗng nằm trong khối xương mặt có liên quan chặt chẽ đến hốc mũi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cách chữa bệnh Viêm Xoang bằng Y học cổ truyền Cách chữa bệnh Viêm Xoang bằng Y học cổ truyền Theo y học cổ truyền, viêm xoang mãn tính là một dạng hư hỏa. Do đó,điều trị viêm xoang không chỉ nhằm giải quyết việc viêm nhiễm tại chỗ mà chủyếu là phải bổ âm để tàng dương. TRIỆU CHỨNG Viêm xoang là tình trạng viêm nhiễm ở một hoặc nhiều khoang rỗng nằmtrong khối xương mặt có liên quan chặt chẽ đến hốc mũi. Về mặt bệnh học, ngườita phân biệt các xoang làm hai nhóm. Nhóm xoang trước gồm xoang trán, xoanghàm và xoang sàng trước, có các lỗ thông đổ ra khe mũi giữa. Nhóm xoang saugồm các xoang sàng sau và xoang bướm, có lỗ thông ra khe mũi trên. Mặt trướccủa xoang bướm còn có hai lỗ nhỏ thông xuống vòm họng. Bình thường, những chất xuất tiết sinh lý hoặc bệnh lý trong xoang đượctháo ra ngoài thông qua lỗ thông mũi xoang. Khi ta bị cảm cúm, các xoang trở nênviêm tắc, phù nề và ngăn trở khả năng thông tháo dịch nhầy ra mũi. Điều này dẫnđến sung huyết mạch máu xoang và nhiễm trùng xoang. Do đó cảm cúm hoặcviêm mũi dị ứng kéo dài nếu không được điều trị thích hợp sẽ dễ dẫn đến viêmxoang, nhất là những trường hợp mũi có cấu tạo bất thường. Hai dấu hiệu chủ yếu của viêm xoang là đau nhức và tăng tiết dịch mũi.Nhức đầu, căng nặng đầu từng cơn hoặc thường xuyên xảy ra ở vùng xoang bịviêm. Dịch tiết chạy xuống họng hoặc ra mũi. Dịch mũi thường đặc, vàng hoặcxanh, đôi khi có cả máu, chứ không trong và loãng như dịch mũi ở chứng cảmcúm thông thường. ĐIỀU TRỊ Việc điều trị viêm xoang mãn tính phải nhằm vào hai yêu cầu: Bổ thận âmvà Nạp khí về thận. Đối với những trường hợp viêm xoang cấp, hoặc khi có nhữngtriệu chứng sưng nhức khó chịu hay bội nhiễm do phong nhiệt cần giải tỏa gấp, cóthể dùng thêm các biện pháp tiêu viêm, tiêu độc hoặc khu phong bài nùng. Tuynhiên, những phương dược điều trị triệu chứng chỉ là phụ và tạm thời. Bệnh kéodài chừng nào thì âm hư càng nặng, càng phải chú trọng đến gốc ở thận. Khi sựcân bằng âm dương đã được thiết lập, hỏa sẽ tự yên vị. Mặt khác khi chính khí đãvững, sức đề kháng vươn lên, tà khí sẽ tự lui. CÁC BÀI THUỐC Lục vị địa hoàng Lục vị là một cổ phương căn bản và thông dụng trong y học cổ truyền để bổThận âm. Gọi là lục vị vì bài thuốc gồm sáu vị. Để nạp khí về thận, Hải ThượngLãn Ông thường dùng thêm ba vị: Mạch môn, ngũ vị; Ngưu tất. Mạch môn làmmát phế vị; Ngũ vị liễm phế, cố thận; Ngưu tất giáng khí, dẫn thuốc về thận. Ngoàira, vì là bệnh lâu ngày nên dùng thêm cao Ban long, là loài huyết nhục hữu tình đểtăng hiệu quả. Cao Ban long là một vị thuốc bổ âm mạnh được chế từ sừng hươunai. Như vậy, một bài thuốc lục vị gia giảm để trị viêm xoang có thể bao gồm: Thục địa 16g cao Ban long 8g hoài sơn 8g mạch môn 8g sơn thù 8g ngũ vị 6g đơn bì 6g ngưu tất 8g trạch tả 4g bạch phục linh 4g Lần thứ nhất, đổ ba chén nước, sắc còn một chén. Lần thứ hai, đổ hai chénnước, sắc còn nửa chén. Hòa chung hai lần nước thuốc lại, chia uống hai hoặc balần trong ngày. Hâm nóng trước khi uống. Có thể dùng liên tục từ 10-15 thang. Một số người không tiện sắc thuốc thì có thể dùng lục vị hoàn mua sẵn ởthị trường Đông dược. Trường hợp này dùng thêm cao Ban long bằng cách cắt nhỏnấu cháo hoặc hấp cơm để ăn. Bổ âm tiếp dương Ở những người lớn tuổi, viêm xoang thường phối hợp với nhiều chứngbệnh mãn tính khác khiến cơ thể suy nhược, ăn kém, thở yếu, hay mệt..., biểu hiệncủa cả khí huyết âm dương đều kém. Những trường hợp này nếu bổ khí khôngkhéo có thể làm tăng khí nghịch, nếu bổ âm đơn thuần có thể làm ngưng trệ Tỳ Vị;Mà khi Tỳ Vị đã trệ thì thuốc gì cũng khó được chuyển hóa. Do đó cần sử dụngthêm các vị thuốc cam, ôn như nhân sâm, hoàng kỳ, bạch truật, can khương để tiếpdương xen kẽ với bổ âm. Với cách điều trị này, khi âm đã vượng lên một phần thìdương cũng tiến được nửa phần. Từng bước nâng lên mà vẫn bảo đảm không làmchênh lệch thái quá sự cân bằng giữa âm và dương. Bàn về cách tiếp dương trongbổ âm, Hải Thượng Lãn Ông đã ghi lại một phương thuốc rất có giá trị là Bổ âmtiếp phương dương. Thục địa 120g, bố chính sâm 60g, bạch truật 40g. can khương 12g (sao đen tẩm đồng tiện), bạch thược 20g (sao đen tẩm đồng tiện), Đây là một thang đại dược, phân lượng lớn, sắc đặc chia làm nhiều lầnuống trong ngày. Thục địa là vị chủ lực để bổ âm. Điểm đặc biệt của phươngthang bổ âm này là gồm cả Sâm, Khương, Truật để bổ Tỳ Vị bằng cách sao đen vàtẩm đồng tiện 2 vị can khương và bạch thược. Cách bào chế này vừa làm dịu sứcnóng của can khương, vừa giáng hư hỏa và dẫn thuốc về thận nhằm tiếp dương khícho Tỳ Vị đủ sức chuyển hóa thục địa, mà lại không kích động hư hỏa. Với những đợt viêm mũi và viêm xoang cấp tính hoặc viêm mũi ...

Tài liệu được xem nhiều: