Danh mục

CÁCH XÁC ĐỊNH VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA CÁC VÙNG BIỂN

Số trang: 67      Loại file: pdf      Dung lượng: 440.12 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 7 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mong muốn xây dựng bản “Hiến pháp” về biển của nhân loại đã trở thành hiện thực vào ngày 30/4/1982 khi Công ước của Liên hiệp quốc HQ về luật biển với 320 điều và 9 phụ lục đính kèm đã được thông qua tại New York và mở cho các quốc gia ký tại Montegobay-Giamaica vào ngày 10/12/1982 sau 5 năm trù bị (1968 -1973) và 09 năm đàm phán chính thức (1973-1982) với 11 khóa họp. Công ước đã chính thức có hiệu lực vào ngày 16/11/1994(12 tháng sau ngày Guyana, nước thức 60 phê chuẩn)[2]. Quốc hội...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÁCH XÁC ĐỊNH VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA CÁC VÙNG BIỂN CÁCH XÁC ĐỊNH VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA CÁC VÙNG BIỂN CÁCH XÁC ĐỊNH VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA CÁC VÙNG BIỂN THEO CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HIỆP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982[1] ………………………………. NCS.Ths. Ngô Hữu Phước Trưởng Bộ môn Công pháp quốc tế, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Mong muốn xây dựng bản “Hiến pháp” về biển của nhân loại đã trở thành hiện thực vào ngày 30/4/1982 khi Công ước của Liên hiệp quốc HQ về luật biển với 320 điều và 9 phụ lục đính kèm đã được thông qua tại New York và mở cho các quốc gia ký tại Montegobay-Giamaica vào ngày 10/12/1982 sau 5 năm trù bị (1968 -1973) và 09 năm đàm phán chính thức (1973-1982) với 11 khóa họp. Công ước đã chính thức có hiệu lực vào ngày 16/11/1994(12 tháng sau ngày Guyana, nước thức 60 phê chuẩn)[2]. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn Công ước vào ngày 23/6/1994 và nộp lưu chiểu Liên hiệp quốc vào ngày 25/7/1994. Lần đầu tiên trong lịch sử, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển quốc tế năm 1982 (gọi tắt là Công ước 1982) đã qui định một cách tổng thể các vấn đề pháp lý về: Chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; Biển cả và đáy đại dương; Các qui định về hàng hải, hàng không; Sử dụng và quản lý tài nguyên sinh vật biển; Bảo vệ môi trường biển; An ninh trên biển và hợp tác quốc tế về biển. Theo quy định của Công ước của Công ước 1982), biển và đại dương được chia thành 03 vùng (khu vực) có chế độ pháp lý khác nhau: - Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia (Nội thủy và Lãnh hải); - Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (Tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); - Các vùng biển chung của cộng đồng quốc tế (Biển quốc tế và đáy đại dương -la zone). I. CÁC VÙNG BIỂN THUỘC CHỦ QUYỀN QUỐC GIA 1. Nội thủy 1.1 Khái niệm và cách xác định nội thủy Khoản 1, Điều 8 Công ước 1982 định nghĩa, nội thủy là:“…các vùng nước phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia”. Như vậy, nội thủy của quốc gia ven biển chính là vùng biển có chiều rộng được xác định bởi một bên là đường bờ biển còn bên kia là đường cơ sở. Đối với quốc gia quần đảo, vùng nước này là toàn bộ phần nước biển nằm trong đường cơ sở của quốc gia quần đảo, được gọi là vùng nước quần đảo. Vùng nước quần đảo chính là “nội thủy” của quốc gia quần đảo. Về phương diện pháp lý, muốn xác định nội thủy, lãnh hải và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia trên biển phải xác định đường cơ sở.Đường cơ sở là ranh giới phía trong của lãnh hải và ranh giới phía ngoài của nội thủy dùng để tính chiều rộng của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyến quốc gia. * Phương pháp xác định đường cơ sở Theo quy định tại Điều 5 và Điều 7 của Công ước 1982, có hai phương pháp để xác định đường cơ sở đó là phương pháp đường cơ sở thông thường và phương pháp đường cơ sở thẳng. + Phương pháp đường cơ sở thông thường Điều kiện áp dụng: Phương pháp đường cơ sở thông thường áp dụng đối với các quốc gia có bờ biển thẳng, bằng phẳng, không có các đoạn lồi l õm ven bờ, thủy triều ổn định và thể hiện rõ ràng. Cách xác định: Quốc gia ven biển sẽ chọn một ngày, tháng, năm khi ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất dọc bờ biển. Dựa vào các điểm, tọa độ đã thể hiện tại ngấn nước thủy triều vào thời điểm đó, quốc gia ven biển sẽ tuyên bố đường cơ sở của quốc gia mình. Tuy nhiên, xác định đường cơ sở theo phương pháp thông thường có một số hạn chế sau đây: Thứ nhất, các điểm, toạ độ thể hiện ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất dọc theo bời biển để xác định đường cơ sở do chính quốc gia đó tuy ên bố nên sẽ không tránh khỏi tình trạng các quốc gia đưa ra tuyên bố không đúng thực tế nhằm mục đích mở rộng càng nhiều càng tốt nội thủy của quốc gia mình ra bên ngoài. Chính vì vậy, mức độ chính xác của các tọa độ, các điểm xác định dựa vào ngấn nước thủy triều sẽ không cao. Thứ hai, cộng đồng quốc tế sẽ rất khó khăn trong việc chứng minh tính xác thực của các điểm, các toạ độ mà quốc gia ven biển đã tuyên bố. Thứ ba, áp dụng phương pháp đường cơ sở thông thường, các quốc gia ven biển sẽ có một vùng nội thủy rất hẹp và đây chính là lý do mà các quốc gia trên thế giới thường không muốn áp dụng hoàn toàn đường cơ sở theo phương pháp này mặc dù căn cứ vào các quy định của Công ước 1982 là hoàn toàn phù hợp. + Phương pháp đường cơ sở thẳng Theo qui định của Công ước 1982, để xác định đường cơ sở theo phương pháp đường cơ sở thẳng, bờ biển của quốc gia phải đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: - Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc có một chuỗi đảo nằm sát và chạy dọc theo bờ biển (khoản 1, Điều 7); - Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác...(khoản 2, Điều 7). Trong trường hợp này, đường cơ sở là đường thẳng gãy khúc được xác định bằng cách nối các điểm nhô ra xa nhất của các đảo ven bờ, của các mũi, các đỉnh chạy dọc theo chiều hướng chung của bờ biển lại với nhau thành đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải. Tránh tình trạng xác định đường cơ sở ra quá xa bờ biển, tùy ý nối tắt nhiều điểm không thực chất thành các đoạn thẳng để có nội thủy rộng lớn, Điều 7 Côn g ước 1982 quy định phương pháp xác định đường cơ cơ sở thẳng phải bảo đảm: - Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa h ướng chung của bờ biển (khoản 3, Điều 7). Tuyến đường cơ sở phải phù hợp địa hình tự nhiên của bờ biển của quốc gia đó). - Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị t ương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế (khoản 4, Điều 7). Có nghĩa là, các bãi cạn lúc chìm, lúc nổi không phải là các điểm vật chất thực tế dùng làm c ...

Tài liệu được xem nhiều: