Danh mục

Cẩm nang an toàn sức khỏe - Phần 29

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 165.85 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Phòng và trị bệnh ung thư Những đối tượng có nguy cơ mắc bệnh ung thư - Những người thường hay thức khuya: Tế bào ung thư là tế bào phát sinh đột biến trong quá trình sinh sản tế bào bình thường. Ban đêm lại là thời điểm tế bào sinh sản tốt nhất. Ngủ không tốt, thân thể rất khó khống chế được sự phát sinh biến dị của tế bào mà sẽ hình thành tế bào ung thư. - Những người mắc bệnh huyết áp cao: Theo một số công trình nghiên cứu khoa học do...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cẩm nang an toàn sức khỏe - Phần 29 Cẩm nang an toàn sức khỏe Phần 29 Chương 12: Phòng và trị bệnh ung thư Những đối tượng có nguy cơ mắc bệnh ung thư - Những người thường hay thức khuya: Tế bào ung thư là tế bào phátsinh đột biến trong quá trình sinh sản tế bào bình thường. Ban đêm lại là thờiđiểm tế bào sinh sản tốt nhất. Ngủ không tốt, thân thể rất khó khống chếđược sự phát sinh biến dị của tế bào mà sẽ hình thành tế bào ung thư. - Những người mắc bệnh huyết áp cao: Theo một số công trình nghiêncứu khoa học do nhóm Gs. John Parker và cộng sự, Trung tâm Kiểm soátBệnh tật (Mỹ) trên 30.000 nam thanh niên Mỹ cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ungthư và tỷ lệ tử vong của người mắc bệnh huyết áp cao hơn 4 lần nhữngngười có huyết áp bình thường. - Những người hay nín tiểu, đại tiện: Nguy cơ ung thư bàng quan(bọng đái), tỷ lệ thuận với bệnh sỏi thận. Trong nước tiểu có một loại chất cóhại đối với các sợi cơ của bàng quang và đó là nguyên nhân gây ra đột biếnung thư. Trong phân cũng có nhiều chất độc hại, số vật chất độc hại nàythường kích thích niêm mạc ruột sẽ dẫn đến đột biến ung thư. Vì vậy biệnpháp phòng ngừa bệnh ung thư là mỗi khi mắc đại tiểu tiện là phải đi ngay. - Những người có cơ địa dị ứng (allergy): Kết quả điều tra nghiên cứutrên gần 40.000 người Mỹ, chủ yếu là những người có cơ địa dị ứng với cácloại dược phẩm hoặc thuốc thử hóa học, cho thấy những đối tượng này dễmắc bệnh hơn so với những người không có cơ địa dị ứng. Nếu những ngườicon gái đã từng có cơ địa dị ứng thì nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến vú cao(30%) so với những chị em bình thường. Nếu những người con trai đã từngcó cơ địa dị ứng thì cơ hội mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt cao (41%) so vớinhững người đàn ông bình thường. - Những đối tượng thiếu sinh tố (vitamins): Các nhà khoa học ngườiThụy Sĩ cho rằng những người có hàm lượng sinh tố ít thì dễ mắc bệnh ungthư hơn. Đối với những người bị thiếu sinh tố A thì nguy cơ mắc bệnh ungthư phổi tăng gấp 3 lần; đối với những người thiếu tiền sinh tố A (caroten)thì khả năng mắc bệnh ung thư dạ dày tăng 3,5 lần; và các bệnh ung thưkhác tăng gấp 2 lần. ở những người bị thiếu sinh tố C (cevitamic acid) thìkhả năng mắc bệnh ung thư bàng quang, ung thư thực quản, ung thư tuyếntiền liệt, ung thư tuyến thượng thận tăng gấp 2 lần... - Những người có lượng cholesterol quá thấp: Một nhóm các nhànghiên cứu thuộc trường Đại học Oxford (Anh) đã chứng minh một nhân tốquan trọng gây tử vong cho những phụ nữ có tuổi chính là lượng cholesterolquá thấp. - Con cái của những người mắc bệnh ung thư: Nếu là con cái củanhững người mắc bệnh ung thư thì cơ hội mắc bệnh tăng gấp 5 lần so vớingười khác. Nhìn chung, đời sau của những người mắc bệnh ung thư thì rủi ro mắcbệnh cao hơn những người bình thường. Hoàng Duy Đức Ung thư khoang miệng Thể thường gặp của ung thư miệng là ung thư biểu mô tế bào gai, hìnhthành trên lớp bề mặt của miệng. Một khi những tế bào gai này bị suy giảmchức năng bảo vệ, chúng sẽ sinh trưởng nhanh chóng và vô tổ chức, tạothành các khối u. Từ khối u này các tế bào ung thư sẽ xâm nhiễm vào các mạch, đi tớinhững vị trí xa của cơ thể tạo thành những u mới. Vì vậy cần dự phòng, chẩn đoán và điều trị sớm ung thư miệng. Nếubệnh nhân được chẩn đoán sớm, lúc u còn nhỏ, việc điều trị sẽ đơn giản vàkết quả lại rất tốt. Ngược lại nếu u đã lan rộng, di căn xa, việc điều trị sẽ rấtphức tạp và kết quả rất hạn chế. Các tỷ lệ về thống kê ung thư miệng: Ung thư miệng chiếm từ 5% - 10% tổng số các loại ung thư và chiếm2% - 3% tổng số các bệnh nhân tử vong trong ung thư. Nhóm đàn ông trên40 tuổi dễ phát hiện ung thư miệng. ở Việt Nam tỷ lệ ung thư miệng ở nữgiới cao có thể do ăn trầu thuốc. Ung thư lưỡi thường gặp nhiều trong ung thư miệng. Các nguyên nhân gây ung thư miệng chưa được xác định rõ nhưng cácyếu tố sau có thể là chủ yếu: - Hút thuốc lá trong một thời gian dài. - Niêm mạc miệng luôn bị kích thích bởi một chiếc răng nhọn hoặcđôi khi do xương cá đâm vào. - Niêm mạch miệng bị tác động do ăn trầu thuốc sau một thời gian dài. - Ánh nắng là yếu tố quan trọng gây ung thư môi. Ta có thể phát hiện những dấu hiệu báo trước ung thư miệng: - Bất kỳ điểm sùi hoặc loét nào ở lưỡi, niêm mạc má hay lợi đã đượcđiều trị 2 tuần mà không khỏi. - Các điểm có màu trắng đỏ ở trong miệng hoặc trên môi. - Có một điếm sưng tấy hoặc nổi một u ở bất cứ điểm nào trong miệnghoặc ở cổ. - Cảm thấy khó khăn, trở ngại trong việc nói và nuốt. - Có những tổn thương bị tái phát nhiều lần trong miệng. - Bị tê dại hoặc mất cảm giác ở bất cứ điểm nào trong miệng. Hầu hết các bệnh nhân bị ung thư miệng không có cảm giác đau ở giaiđoạn sớm. Triệu chứng đầu tiên thường là cảm giác khó chịu do kích thước của ...

Tài liệu được xem nhiều: