Cảm nhận về bài thơ Nhàn
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 204.40 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn thế kỉ XVI, giai đoạn có nhiều biến cố phức tạp, nội chiến tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên, nhân dân lầm than đói khổ trong cảnh "nồi da nấu thịt". Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện thái độ phê phán những thói đời bạc bẽo, ham danh lợi mà bỏ đi tình nghĩa, là một biểu hiện thanh cao của một tấm lòng thiết tha với dân tộc. "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm là bài thơ tiêu biểu cho mảng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cảm nhận về bài thơ Nhàn Cảm nhận về bài thơ Nhàn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn thế kỉ XVI, giai đoạn có nhiềubiến cố phức tạp, nội chiến tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến diễnra liên miên, nhân dân lầm than đói khổ trong cảnh nồi da nấu thịt. Sáng tác củaNguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện thái độ phê phán những thói đời bạc bẽo, ham danh lợimà bỏ đi tình nghĩa, là một biểu hiện thanh cao của một tấm lòng thiết tha với dân tộc.Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ về đề tài tịch cưtrong văn học trung đại. Bài thơ vẽ nên một bức tranh sinh hoạt của người ẩn sĩ vớithú vui dân dã. Khi về ở ẩn, Trạng Trình đã tỏ ra rất bằng lòng với lựa chọn của mình: Cao khiết thuỳ vi thiên hạ sĩ ? An nhàn ngã thị địa trung tiên ! (Kẻ sĩ trong thiên hạ ai là người trong sạch, thanh cao? Yên vui nhàn nhã, ta đây đích thực là tiên trong đời!) (Ngụ hứng) Là tiên khách bởi được thoải mái cả về thân xác và tinh thần : Nội đắc tâm thân lạc, Ngoại vô hình dịch luỵ. (Bên trong được thú vui của tâm, của thân, Bên ngoài khỏi phải chạy vạy để phục dịch cho hình xác) (Cảm hứng) Thú vui nhàn dật, tránh xa khỏi vòng danh lợi là một đề tài khá quen thuộc củavăn học thế kỉ XVI. Nhiều tác giả ca ngợi cuộc sống miền thôn dã với thú vui điềnviên sơn thuỷ : Yêu thay miền thôn tịch ; Yêu thay miền thôn tịch ! Cư xử dầu lòng ; Ngao du mặc thích. Khéo chiều người mến cảnh sơn hà ; Dễ quyến khách vui miền tuyền thạch. (Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú) Cuộc sống tự nhiên, thanh tao miền tịch cư đã giúp các nhà nho tránh đượcnhững phiền phức chốn quan trường. Cuộc sống nhàn tịch miền thôn dã được tác giảmiêu tả ở hai câu đề và hai câu thực : Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Cách dùng số từ, danh từ, từ thơ thẩn trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu haicâu đề gợi nên dáng vẻ ung dung trong công việc lao động hàng ngày và thể hiệnnhững nhu cầu khiêm tốn của cuộc sống ẩn dật. Cuộc sống thật gần gũi với tự nhiên,đơn giản mà thanh sạch, vô tư, dường như không mảy may vướng bận những lo toancủa cuộc sống bon chen nơi đông đúc. Cuộc sống đơn giản, với những sinh hoạt đạmbạc, mùa nào thức ấy, không phải lo lắng gì nhiều. Đủ cả bốn mùa, mỗi mùa một sảnvật, vừa thể hiện thời gian quanh năm, vừa thể hiện được mối quan hệ gần gũi, hoànhập cùng thiên nhiên. Một trong những đặc điểm nổi bật của lối sống ẩn dật là hoànhập cùng thiên nhiên. Những nhu cầu giản dị của người ẩn sĩ đều được thiên nhiênthoả mãn một cách dễ dàng. Những sinh hoạt của người ẩn sĩ thật giản dị và thanhcao, giống như một tiên khách chốn trần gian. Bằng lòng với cuộc sống ẩn dật, ngườiẩn sĩ tự hào với sự lựa chọn của chính mình : Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao. Câu thực được tạo nên bởi một lối đối rất chỉnh giữa quan niệm dại vàkhôn. Một lối nói chứa hàm ý mỉa mai, thể hiện sự kiên định của nhà thơ với lốisống nhàn dật. Tự nhận ta dại là một sự ngông ngạo của người ở ẩn, đó là cái dạicủa bậc đại trí trong thiên hạ. Cái dại của những người như Mạnh Hạo Nhiên, ĐàoTiềm, Nguyễn Trãi : Cầm một chương, thơ mấy quyển, đủ tháng ngày ngâm ngợi, ấy thú mầu ôngMạnh Hạo Nhiên ; Lan chín khóm, cúc ba hàng, dõi hôm sớm bù trì, này của báu ông Đào BànhTrạch. (Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú) Họ tự hào với cuộc sống ấy bởi đó là cuộc sống thanh cao. Và họ kiên định vớicách lựa chọn ấy : Dù ai cười thơ thẩn ngẩn ngơ ; Thì ta cũng ngô nghê ngốc nghếch. (Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú) Những bậc đại trí ấy tìm đến vắng vẻ, trước tiên không phải là trốn tránhtrách nhiệm với cuộc đời, mà họ đều đến nơi thôn tịch khi họ đã không thể cứu nướccứu dân, họ chọn cuộc sống giữa thiên nhiên cây cỏ khi họ phải lựa chọn giữa lối sốngluồn cúi và cuộc sống thanh sạch mà nghèo cực. Dù luôn nói đến cái thảnh thơi củamột người nhàn tâm thản trí nhưng thực ra trong lòng họ vẫn mang những day dứt vềcuộc đời. Về ở ẩn, họ dễ tránh được chốn lao xao, bởi theo nhà thơ, là nơi mọingười phải đua chen trong vòng danh lợi : Thành thị vốn đua tranh giành giật (Thơ Nôm, bài 19) Không nơi nào không có đua chen, tranh giành : ở triều đình thì tranh nhau cáidanh, ở chợ búa thì giành nhau cái lợi (Bài bi kí quán Trung Tân). Ở câu thơ kết, mộtlần nữa tác giả khẳng định quan điểm sống của mình, đó là một cách thể hiện thái độvới cuộc đời của một nhà Nho : Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cảm nhận về bài thơ Nhàn Cảm nhận về bài thơ Nhàn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn thế kỉ XVI, giai đoạn có nhiềubiến cố phức tạp, nội chiến tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến diễnra liên miên, nhân dân lầm than đói khổ trong cảnh nồi da nấu thịt. Sáng tác củaNguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện thái độ phê phán những thói đời bạc bẽo, ham danh lợimà bỏ đi tình nghĩa, là một biểu hiện thanh cao của một tấm lòng thiết tha với dân tộc.Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ về đề tài tịch cưtrong văn học trung đại. Bài thơ vẽ nên một bức tranh sinh hoạt của người ẩn sĩ vớithú vui dân dã. Khi về ở ẩn, Trạng Trình đã tỏ ra rất bằng lòng với lựa chọn của mình: Cao khiết thuỳ vi thiên hạ sĩ ? An nhàn ngã thị địa trung tiên ! (Kẻ sĩ trong thiên hạ ai là người trong sạch, thanh cao? Yên vui nhàn nhã, ta đây đích thực là tiên trong đời!) (Ngụ hứng) Là tiên khách bởi được thoải mái cả về thân xác và tinh thần : Nội đắc tâm thân lạc, Ngoại vô hình dịch luỵ. (Bên trong được thú vui của tâm, của thân, Bên ngoài khỏi phải chạy vạy để phục dịch cho hình xác) (Cảm hứng) Thú vui nhàn dật, tránh xa khỏi vòng danh lợi là một đề tài khá quen thuộc củavăn học thế kỉ XVI. Nhiều tác giả ca ngợi cuộc sống miền thôn dã với thú vui điềnviên sơn thuỷ : Yêu thay miền thôn tịch ; Yêu thay miền thôn tịch ! Cư xử dầu lòng ; Ngao du mặc thích. Khéo chiều người mến cảnh sơn hà ; Dễ quyến khách vui miền tuyền thạch. (Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú) Cuộc sống tự nhiên, thanh tao miền tịch cư đã giúp các nhà nho tránh đượcnhững phiền phức chốn quan trường. Cuộc sống nhàn tịch miền thôn dã được tác giảmiêu tả ở hai câu đề và hai câu thực : Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Cách dùng số từ, danh từ, từ thơ thẩn trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu haicâu đề gợi nên dáng vẻ ung dung trong công việc lao động hàng ngày và thể hiệnnhững nhu cầu khiêm tốn của cuộc sống ẩn dật. Cuộc sống thật gần gũi với tự nhiên,đơn giản mà thanh sạch, vô tư, dường như không mảy may vướng bận những lo toancủa cuộc sống bon chen nơi đông đúc. Cuộc sống đơn giản, với những sinh hoạt đạmbạc, mùa nào thức ấy, không phải lo lắng gì nhiều. Đủ cả bốn mùa, mỗi mùa một sảnvật, vừa thể hiện thời gian quanh năm, vừa thể hiện được mối quan hệ gần gũi, hoànhập cùng thiên nhiên. Một trong những đặc điểm nổi bật của lối sống ẩn dật là hoànhập cùng thiên nhiên. Những nhu cầu giản dị của người ẩn sĩ đều được thiên nhiênthoả mãn một cách dễ dàng. Những sinh hoạt của người ẩn sĩ thật giản dị và thanhcao, giống như một tiên khách chốn trần gian. Bằng lòng với cuộc sống ẩn dật, ngườiẩn sĩ tự hào với sự lựa chọn của chính mình : Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao. Câu thực được tạo nên bởi một lối đối rất chỉnh giữa quan niệm dại vàkhôn. Một lối nói chứa hàm ý mỉa mai, thể hiện sự kiên định của nhà thơ với lốisống nhàn dật. Tự nhận ta dại là một sự ngông ngạo của người ở ẩn, đó là cái dạicủa bậc đại trí trong thiên hạ. Cái dại của những người như Mạnh Hạo Nhiên, ĐàoTiềm, Nguyễn Trãi : Cầm một chương, thơ mấy quyển, đủ tháng ngày ngâm ngợi, ấy thú mầu ôngMạnh Hạo Nhiên ; Lan chín khóm, cúc ba hàng, dõi hôm sớm bù trì, này của báu ông Đào BànhTrạch. (Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú) Họ tự hào với cuộc sống ấy bởi đó là cuộc sống thanh cao. Và họ kiên định vớicách lựa chọn ấy : Dù ai cười thơ thẩn ngẩn ngơ ; Thì ta cũng ngô nghê ngốc nghếch. (Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú) Những bậc đại trí ấy tìm đến vắng vẻ, trước tiên không phải là trốn tránhtrách nhiệm với cuộc đời, mà họ đều đến nơi thôn tịch khi họ đã không thể cứu nướccứu dân, họ chọn cuộc sống giữa thiên nhiên cây cỏ khi họ phải lựa chọn giữa lối sốngluồn cúi và cuộc sống thanh sạch mà nghèo cực. Dù luôn nói đến cái thảnh thơi củamột người nhàn tâm thản trí nhưng thực ra trong lòng họ vẫn mang những day dứt vềcuộc đời. Về ở ẩn, họ dễ tránh được chốn lao xao, bởi theo nhà thơ, là nơi mọingười phải đua chen trong vòng danh lợi : Thành thị vốn đua tranh giành giật (Thơ Nôm, bài 19) Không nơi nào không có đua chen, tranh giành : ở triều đình thì tranh nhau cáidanh, ở chợ búa thì giành nhau cái lợi (Bài bi kí quán Trung Tân). Ở câu thơ kết, mộtlần nữa tác giả khẳng định quan điểm sống của mình, đó là một cách thể hiện thái độvới cuộc đời của một nhà Nho : Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
ôn thi đại học môn văn nghị luận văn 12 phân tích văn học giảng văn 12 văn mẫu lớp 12Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 790 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
7 trang 311 0 0 -
Ý nghĩa phê phán sâu kín của trích đoạn phóng sự Nghệ thuật băm thịt gà
3 trang 161 2 0 -
Nghị luận xã hội chủ đề: Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ biết dành phần ai
2 trang 74 0 0 -
Phân tích và chứng minh chất thép trong tập thơ Nhật kí trong tù
3 trang 62 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
25 trang 60 0 0 -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ
24 trang 53 0 0 -
Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội - Nguyễn Khải
10 trang 49 0 0 -
Phân tích đoạn trích Ông già và biển cả của nhà văn Hê-Minh-Uê
23 trang 44 0 0 -
Phân tích tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối chung sống
4 trang 42 0 0