Danh mục

Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt - Kim Lân và A Phủ trong Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 146.21 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Với hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”, cả hai nhà văn đã dựng nên được hình tượng con người lao động với bao phẩm chất đáng quý. Đó là anh Tràng hiền lành nhân hậu trong “Vợ nhặt” và A Phủ chàng trai của tự do trong “Vợ chồng A Phủ”. Để cảm nhận rõ hơn về các nhân vật trong 2 tác phẩm, mời các bạn cùng tham khảo 5 bài văn mẫu phân tíchCảm nhận về vẻ đẹp của hai nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt - Kim Lân và A Phủ trong Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài.


Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt - Kim Lân và A Phủ trong Vợ chồng A Phủ - Tô HoàiVĂN MẪU LỚP 12: VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI CẢM NHẬN VỀ VẺ ĐẸP CỦA HAI NHÂN VẬT TRÀNG TRONG TÁC PHẨM VỢ NHẶT – KIM LÂN VÀ A PHỦ TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ – TÔ HOÀI BÀI MẪU SỐ 1: Hình tượng người lao động từ lâu đã trở thành một đề tài lớn của văn học nghệ thuật thu hút biết bao ngòi bút văn chương. Không ít tác giả đã thành công về đề tài này trong đó có Kim Lân và Tô Hoài. Với hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”, cả hai nhà văn đã dựng nên được hình tượng con người lao động với bao phẩm chất đáng quý. Đó là anh Tràng hiền lành nhân hậu trong “Vợ nhặt” và A Phủ chàng trai của tự do trong “Vợ chồng A Phủ”. Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và người nông dân. Tác phẩm “Vợ nhặt” trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Nếu Kim Lân thiên về đề tài nông thôn thì Tô Hoài lại rất am hiểu văn hóa nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta. Trong đó đặc biệt là văn hóa Tây Bắc. Chính vùng đất và con người nơi đây đã thổi hồn vào trang viết của ông để lại bao hình ảnh đẹp. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Tô Hoài viết về con người và thiên nhiên nơi đây. Cả hai thiên tài truyện ngắn Kim Lân và Tô Hoài đều là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, con người lao động hiện lên với những phẩm chất chung đáng quý. A Phủ và Tràng đều là những con người lao động lương thiện, nhân hậu, sống nghĩa tình. Ở họ còn ngời sáng bởi phẩm chất lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Họ khao khát mái ấm gia đình, khao khát tình yêu, khao khát tự do trong một thế kỷ bạo tàn. Họ đều là nạn nhân đáng thương của chế độ xã hội cũ, bị bóc lột, bị đẩy đến con đường cùng. Nhưng ở họ vẫn luôn khao khát được sống, được vươn lên. Tràng bị nạn đói dồn đẩy đến vực thẳm của cái chết nhưng vẫn khát vọng mái ấm, anh đã xây hạnh phúc trên nền thảm đạm của chết chóc mà vẫn hi vọng được đổi đời. A Phủ bị lăng nhục, bị chà đạp nhưng vẫn khao khát tự do. Anh đã vượt ngục để đến miền đất hứa Phiềng Sa cùng Mị xây đắp hạnh phúc của mình. Ở họ tuy điều kiện hoàn cảnh sống và lịch sử khác nhau nhưng đều có những kết thúc tốt đẹp dù trước đó là một chuỗi bi kịch cuộc đời tăm tối. Bên cạnh những điểm giống nhau đó, ở hai nhân vật này có nhiều điểm riêng biệt mang đến những vẻ đẹp khác nhau. Trước hết ta hãy đến với nhân vật Tràng. Tìm hiểu vào truyện ta thấy, Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng; sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp. Tràng là dân ngụ cư nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê. Anh sống với mẹ già. Gia cảnh nghèo túng. Cái được gọi là “nhà” thì luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Đã vậy, Tràng lại có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Ngay cả đến tên gọi cũng là tên gọi của một loại đồ vật dùng trong nghề mộc (Cái Tràng, cái Đục). Với vài nét bút phác họa giản đơn, Tràng hiện lên có phần giống với những thằng đần, thằng ngốc trong truyện cổ tích. Cái lưng thì được nhà văn tạo thành “lưng gấu”, cái mặt thì ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tý gà gà. Quai hàm bạnh”. Tính cách thì phần trẻ con nhiều hơn. Vì thế chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về. Nhưng Kim Lân không có ý định viết truyện cổ tích với thằng đần thằng ngốc mà ông đang kể lại một sự thật, sự thật đắng lòng về cái đói và tình người năm đói. Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái “cười tít mắt của thị” bởi “từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”. Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “Điêu, người thế mà điêu”. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách: “Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa”. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều “bốn bát bánh đúc”. Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo. Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết“mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “Chậc kệ!” Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình. Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khát khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình: Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…”. Tràng còn hào phóng “ mua hai hào dầu để thắp sáng”. Trên đường về: (k ...

Tài liệu được xem nhiều: