Tham khảo: (1) Can khương và Phụ tử đều có tác dụng ôn dương khử hàn. Nhưng Can khương thuộc về ôn Tỳ dương trị lạnh tay chân, quyết nghịch. Trường hợpâm hàn nội thịnh, Tỳ Thận dương đều hư thì cả 2 vị có thể cùng dùng một lúc (Đông Dược Học Thiết Yếu). (2) Gừng khô xắt lát đầy sao cháy đen tồn tính (80%) gọi là Hắc khương hay Khương tán có tác dụng cầm máu, mửa ra máu, lỵ ra máu. Hắc khương dùng với thuốc bổ âm thì nó đem được huyết vào khí...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CAN KHƯƠNG (Kỳ 3) CAN KHƯƠNG (Kỳ 3) Tham khảo: (1) Can khương và Phụ tử đều có tác dụng ôn dương khử hàn. NhưngCan khương thuộc về ôn Tỳ dương trị lạnh tay chân, quyết nghịch. Trường hợpâm hàn nội thịnh, Tỳ Thận dương đều hư thì cả 2 vị có thể cùng dùng một lúc(Đông Dược Học Thiết Yếu). (2) Gừng khô xắt lát đầy sao cháy đen tồn tính (80%) gọi l à Hắc khươnghay Khương tán có tác dụng cầm máu, mửa ra máu, lỵ ra máu. Hắc khươngdùng với thuốc bổ âm thì nó đem được huyết vào khí Phận, những chứng huyếthư phát sốt và chứng nóng lạnh vì bệnh huyết sau khi sinh có khi hay dùng đếnHắc khương. (3) Cách chế ngày xưa như sau: Đem gừng sống ngâm nước 3 ngày bỏmột lần vỏ rồi đem để ở dòng nước chảy 6 ngày, bỏ một lần vỏ nữa lại đemphơi cho khô, dùng chỗ sàn mà đổ trong 3 ngày, hễ thấy Gừng sống biến thànhmàu tím là được. Có khi người ta đem Can khương tẩm nước tiểu trẻ con rồicũng sao như Bào khương nhưng kỷ hơn một chút khi nào thấy đen là được. (4) Gừng khô ngâm nước rửa sạch để khô đổ nước vào nồi đất hun lửanhỏ và quấy đều chừng nửa ngày, hễ thấy củ Can khương đều nhẹ đi là đượcgọi là Bào khương, Vị nó hơi đăng mà tính lại đứng yến một chỗ khác với Sinhkhương, Bào khương có tác dụng ôn được tỳ vị, trị những chứng bên trong bịhàn tà, ứ nước, hoắc loạn, sốt rét lâu ngày, đau ngực lạnh bụng, tức đầy, lạnhhạ tiêu, dương khí của thận suy, mạch muốn tuyệt, những chứng này dùng Bàokhương gia thêm Phụ tử giúp sức thì rất công hiệu. (5) Gừng khô xắt lát dầy, sao ném vàng, còn đang nóng rảy ít nước vàorồi đậy kín ngay để nguội lấy dùng gọi là Thượng tiêu. (6) Gừng đồ lên để nguyên cả vỏ phơi khô gọi là Can kinh khương trịchứng tỳ vị hàn thấp. Gừng cạo vỏ đi nhưng chưa đồ chưa bào, màu trắng vị rấtcay gọi là Bạch khương, Thục khương trị chứng phế và vị hàn. (7) Can khương là gừng đồ xôi chín phơi khô. Phá được huyết tiêu đượcđờm, đau bụng, nôn mửa đều dùng được, ấm trung tiêu đưa khí xuống, trừtrưng hà tích tụ, khai vị, giúp tỳ tiêu thức ăn ngưng trệ. Để sống thì phát hãnnhanh chóng, sao đen thì cầm máu rất có kinh nghiệm. Thường bào chế vàothời kỳ cuối đông đầu xuân, lấy Gừng gìa đã thành xơ trong ruột, đem ngậm ởdòng nước chảy 7 ngày, lấy lên rửa sạch, cho vào chỗ đồ chín phơi khô đểdùng (Hải Thượng Lãn Ông). + Vị này tính nhiệt, do khô, táo nên sức phát tán yếu nhưng tác dụng ônlý lại tăng mạnh, thiên về trị lý bị hàn, năng tẩu năng thủ, vì vậy dùng để khứhàn, ôn trung, hồi dương. Can khương và Phụ tử đều có tác dụng ôn lý, tánhàn, hồi dương nhưng Phụ tử thiên về ôn Thận dương còn Can khương chủ yếuôn Tỳ dương, vì vậy, chứng lý hàn nội thịnh, Tỳ Thận dương suy, chân tayquyết lạnh thì hai vị này thường được dùng phối hợp. Sinh khương tính ôn,thiên về phát tán, tẩu nhi bất thủ, thường dùng trị ngoại cảm phong hàn vàtrong Vị có hàn, ẩm gây nên nôn mửa. Bào khương tính khổ, ôn, đã mất tácdụng tân tán, tính thủ nhi bất tẩu, vì vậy chuyên về ôn lý, có thể dẫn thuốc vàohuyết, cho nên có thể chỉ huyết, hoá được hàn trong huyết, thích hợp với chứngxuất huyết do hư hàn (dương hư) như băng huyết, thổ huyết, tiện huyết…(Thực Dụng Trung Y Học).