Danh mục

Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ Hai cốt cách và thân phận Nho sĩ vào mở đầu triều Nguyễn

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 197.96 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Năm 2008 là chẵn 200 năm sinh của Cao Bá Quát và 150 năm mất của Nguyễn Công Trứ(1). Cả hai có hành trạng gắn với 4 vị vua mở đầu triều Nguyễn là Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Đọc, tìm hiểu Cao Bá Quát khó mà không gợi nghĩ và liên tưởng tới Nguyễn Công Trứ, dẫu với rất nhiều khác biệt giữa họ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ Hai cốt cách và thân phận Nho sĩ vào mở đầu triều NguyễnCao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ - Hai cốt cách và thân phận Nho sĩ vào mở đầu triều Nguyễn Năm 2008 là chẵn 200 năm sinh của Cao Bá Quát và 150 năm mất của NguyễnCông Trứ(1). Cả hai có hành trạng gắn với 4 vị vua mở đầu triều Nguyễn là Gia Long, MinhMệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Đọc, tìm hiểu Cao Bá Quát khó mà không gợi nghĩ và liên tưởng tới NguyễnCông Trứ, dẫu với rất nhiều khác biệt giữa họ. Bởi cả hai là sản phẩm của một thời đại,và là tiếng nói tiêu biểu cho giới trí thức Nho học trọn nửa đầu thế kỷ XIX, với nhữngthử thách và bi kịch đặt ra không còn giống với thế kỷ XVIII trước đó; và cũng khônggiống nửa sau thế kỷ XIX khi đất nước phải trực tiếp đối đầu rồi mất vào tay chủ nghĩathực dân phương Tây. Thuộc thế hệ tiền bối, Nguyễn hơn Cao 30 tuổi. Khi Cao ra đời, dẫu đã có sớ Tháibình thập sách dâng Gia Long trước đó 4 năm (1804) Nguyễn vẫn còn là hàn sĩ. Khi Caomất ở tuổi 47 và bị bêu đầu, Nguyễn vẫn còn tiếp 3 năm tuổi già ở chốn quê nhà. Khôngbiết thái độ của Nguyễn đối với Cao ra sao; còn về Cao thì ít nhất 2 lần có quan hệ vớiNguyễn. Lần đầu, Cao có thơ họa tặng Nguyễn ở tuổi 70 cáo lão về hưu, khi cả hai cùng ởKinh. Lần hai, khi Nguyễn ở quê được dân khẩn hoang Tiền Hải - Kim Sơn nồng nhiệt đónrước trong một dịp ra thăm, khiến triều đình lo lắng, dị nghị... Hãy thử lược kể một số điểm giống và khác giữa hai người. Cả hai đều ngông, tất nhiên sắc thái ngông là có khác nhau, bởi cả hai đều là ngườicó tài, và thị tài. Cả hai đã để lại 2 bài phú Nôm về cái nghèo, cái bần cùng chung cho các bậc hàn sĩthuộc loại hay nhất trong thể phú ở thế kỷ XIX và rộng ra là nền phú Nôm trung đại. Mộtlà Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ vào đầu đời, khi đang còn là mộttrang công tử xác gắng thu xếp “cung kiếm cầm thư vào một gánh”... Một là Tài tử đa cùngphú của Cao Bá Quát cũng vào đầu đời, trong cảnh “đa cùng”, “tóc xanh” đang nuôichí “gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm sang cẩm tú”. Cả hai đều hăm hở trên con đường công danh, qua con đường cử nghiệp, nhưng đềulận đận. Nguyễn, đến 1819 mới giành được cái Giải nguyên; năm sau - ở tuổi 42 mới đượcnhận Hành tẩu bộ Lễ. Cao giành được Cử nhân năm 1831, ở tuổi 23, suýt được Á nguyên, nhưng bị soimói nên phải rơi xuống áp chót. Ba lần trẩy kinh thi Hội đều hỏng; nhưng văn tài thì lẫylừng sớm, giới trí thức và quan trường không ai không biết - để có các truyền ngôn và giaithoại: “Thần Siêu - Thánh Quát”. “Thiên hạ có ba bồ chữ thì ông chiếm một”... Có lẽ vì thếnên vào đầu triều Thiệu Trị, Cao được gọi vào Kinh, ở tuổi 33, cũng được nhận chức Hànhtẩu bộ Lễ. Nguyễn - quan lộ tuy muộn, với rất nhiều trồi sụt, thăng giáng, “lên voi xuống chó”,nhưng trong ngót 30 năm Nguyễn cũng có nhiều lúc hanh thông; ở đỉnh cao danh vọng - đólà lúc nhận ấn Binh Bộ Thượng thư kiêm Thự Tổng đốc Quảng An năm 1836, ở tuổi 58... Cao 12 năm quan lộ, tủi cực đủ điều; ở nha môn thì ít, bị đầy đọa thì nhiều, vì nạn nọđến nạn kia. Vừa mới nhận Hành tẩu bộ Lễ, được cử giám khảo thi Hương, do cùng PhanNhạ chữa bài cho 24 học trò mà bị hạ ngục, tra tấn, bị ghép vào tội tử hình, được hạ xuốngtrảm giam hậu, rồi phải lên tàu thuyền đi công vụ “hiệu lực” ở mấy nước láng giềng thuộcBiển Đông trong mấy tháng, cuối cùng bị thải hồi về quê ở tuổi 35. Mùi lộc quan nha chưahề được nếm đã phải nếm đòn roi. Năm 1847 lại được vời về Kinh, lo việc giấy tờ, biên tậpthơ ca ở Viện Hàn lâm. Chán nghề - nhưng giao du rộng với giới trí thức, trong đó cónhững người nổi tiếng như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Nguyễn Văn Siêu, NguyễnHàm Ninh... Lại trở về quê, rồi được cử Giáo thụ phủ Quốc Oai năm 1850. Những chứcquan mọn, cái tài tuyệt không được sử dụng, luôn sống trong nghèo túng, dằn vặt vì tráchnhiệm với gia đình, vì nghĩa vụ với đất nước, với nhân dân. Ở chức quan cuối cùng này,chính Cao đã ghi lại cảnh sống của mình: Mô phạm dăm ba thằng mặt trắng Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng Nhà trống ba gian - một thầy, một cô, một chó cái Học trò dăm đứa - nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi Nguyễn, đời quan cũng nhiều bầm dập, thăng giáng liên tục; thăng là do công lớn,như dẹp Phan Bá Vành, như làm Dinh điền sứ; nhưng giáng thì rất chóng, bởi nhữngnguyên cớ không có gì to - chẳng hạn một tên tù sổng mà hạ 4 bậc; có lúc bị vu cáo cóthuộc hạ buôn lậu mà bị hạ xuống làm lính thú - biên phòng. Từ Tổng đốc, Binh BộThượng thư đến lính thú - đó là hai cực vinh-nhục của đời người; ứng phó với tình cảnh ấy,Nguyễn an nhiên trong một thái độ: Nếu chức Tổng đốc không xem là vinh, thì làm lính thúkhông có gì là nhục. Một đời tận hiến cho vua - trọn vẹn cả hai triều Minh Mạng và ThiệuTrị, rút lại chỉ còn được cái hàm Thừa Thiên Phủ Doãn để về hưu, dẫu mấy lần dâng sớ xinhưu nhưng Thiệu Trị không cho. Còn Cao, tài ...

Tài liệu được xem nhiều: