Cao nguyên đá trước ngày chinh phục thế giới? (Kỳ 1)
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 149.94 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Quanh năm “Bán mặt cho đá, bán lưng cho trời”, sống chết cùng với đá nhưng cái đói, cái nghèo cứ “chảy” theo bà con dân tộc các huyện vùng cao Hà Giang từ bao đời nay. Và rồi, ngày thoát nghèo mà họ hằng mơ ước cũng đang đến…
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cao nguyên đá trước ngày chinh phục thế giới? (Kỳ 1) Cao nguyên đá trước ngày chinh phục thế giới? (Kỳ 1)Quanh năm “Bán mặt cho đá, bán lưng cho trời”, sống chết cùng với đánhưng cái đói, cái nghèo cứ “chảy” theo bà con dân tộc các huyện vùng caoHà Giang từ bao đời nay. Và rồi, ngày thoát nghèo mà họ hằng mơ ước cũngđang đến… Những em nhỏ đang trong độ tuổi đến trường cũng tham gia gùi vật liệu xây dựng kiếm thêm thu nhập cho gia đình.Sống nghèo trên đất…toàn đáNằm trên địa bàn các huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc (HàGiang), cao nguyên đá Đồng Văn rộng 2.347,63 km2, có hơn 23 vạn người sinhsống. Đây là địa bàn miền núi đá xa xôi hẻo lánh ở cực Bắc của tổ quốc, điều kiệntự nhiên vô cùng khó khăn và khắc nghiệt. Do điều kiện tự nhiên không thuận lợinên việc phát triển kinh tế của 17 dân tộc anh em ở miền khô khát n ày từ bao đờinay vẫn chỉ có trong tưởng tượng.Để có thể sống ở nơi bậc nhất khắc nghiệt này, rất nhiều bà con, chủ yếu là dân tộcMông họ đã phải trải qua hàng trăm năm để thích nghi với môi trường. Phần lớnngười dân tộc ở vùng cao nguyên đá đều không nói được tiếng phổ thông nên việcgiao lưu học hỏi của họ rất khó khăn, vì bất đồng ngôn ngữ.Cuộc sống ở miền cao nguyên đá hầu như không có ngày nghỉ, họ làm việc quầnquật quanh năm suốt tháng nhưng chất lượng sống vẫn chẳng được cải thiện làbao. Bởi một lý do đơn giản là để trồng được cây ngô (cây trồng chủ đạo của caonguyên đá) họ phải khom lưng gùi đất đổ vào từng hốc đá để lấy chỗ gieo hạt. Thếnhưng ở nơi hơn 85% diện tích đất tự nhiên là đá này, hàng nghìn người hàngngày bấu víu vào vách đá để sinh tồn.Chứng kiến hình ảnh những đứa trẻ mới lên năm, lên bảy lóc nhóc theo bố mẹ làmnhững công việc như một người trưởng thành, đó là hình ảnh đáng buồn. Tình cờchúng tôi gặp một em bé còng lưng gùi một gùi bắp ngô to gấp 3 lần cơ thể mình,hỏi ra mới biết em tên là Mai, ở thôn Mã Pì Lèng (Mèo Vạc) năm nay hơn 7 tuổi,em học lớp hai.Do cuộc sống khó khăn nên nhiều em nhỏ đã phải bươn chải từ rất sớm. Khichúng tôi có mặt tại “công trường” nhộn nhịp xây dựng cột cờ Lũng Cú có tớihàng chục em nhỏ tham gia làm “công nhân nhí”, người vác xi măng, người đậpđá…Chưa qua cái tuổi lớp bốn, lớp năm họ đã phải bán sức để kiếm sống.Hình ảnh đó khiến tôi nghĩ ngay đến sự học của những đứa trẻ nơi đây. Vì cuộcsống mưu sinh nhiều em nhỏ đã không được đến trường, những em may mắn hơnthì cũng chỉ học hết cấp 2. Trình độ dân trí thấp, theo đó là việc tuyên truyền cácchính sách của Đảng và nhà nước họ rất khó tiếp thu nên bài trừ các tập tục lạchậu và mê tin dị đoan là điều vô cùng khó khăn.Quen với những vách đá, cây ngô, quen với cái đói, cái nghèo, và cái điều mà baođời nay, những người sống trên cao nguyên đá không bao giờ nghĩ tới đã và đangđến với họ, khi đó cuộc sống của chính họ và nhiều đời sau nữa sẽ khác với nhữnggì mà cha ông đã trải qua. Hẻm vực Tu Sản, nhìn từ Mã Pí LèngCông viên… “thoát nghèo”Nhờ tích hợp nhiều kiểu di sản địa chất có giá trị cần được bảo tồn và khai tháccho thế hệ tương lai mà cao nguyên đá Đồng Văn, “mảnh đất” toàn đá nơi hàngvạn người dân đang sinh sống, đã được chính quyền địa phương và nhà khoa họclựa chọn làm Công viên địa chất đầu tiên của Việt Nam. “Khi công viên địa chấtđược UNESCO công nhận, đó sẽ là con đường thoát nghèo của hàng nghìn ngườidân cao nguyên đá”, ông Ma Ngọc Giang, Giám đốc ban quản lý công viên địachất cao nguyên đá Đồng Văn chia sẻ đầy tin tưởng.Như lời ông Giang, việc công viên địa chất được công nhận, đó là giải pháp tối ưuđể vừa bảo tồn các giá trị đa dạng về di sản thiên nhiên và nhân văn vừa giúpngười dân thoát khỏi cảnh nghèo khó, vươn lên làm giàu trên chính quê hươngmình.Nếu như cao nguyên đá Đồng Văn đươc UNESCO chính thức công nhận là côngviên địa chất thì sẽ được cả thế giới biết đến, từ đó sẽ có thể phát triển nhiều dạngdu lịch khám phá phong phú. Chẳng hạn, có thể thiết kế cho du khách đi ô tô thămcổng trời Quản Bạ, Núi Cô Tiên, Khu di tích kiến trúc nhà Vương, đèo Mã PìLèng hay đi bộ, cưỡi ngựa leo núi thám hiểm các hang động.Tuyến du lịch mạo hiểm bằng xuồng máy, xuồng cao su, ca nô dọc các sông NhoQuế, sông Nhiệm, sông Miện…cũng hứa hẹn sẽ vô cùng hấp dẫn. Sẽ có nhiềukhách du lịch trong và ngoài nước đến thăm quan, học tập và nghiên cứu, tìm hiểucác giá trị di sản thiên nhiên và nhân văn của Công viên địa chất.Ông Ma Ngọc Giang cho biết thêm việc phát triển mô hình du lịch sẽ khai thác thếmạnh của địa phương, chẳng hạn như các đặc sản truyền thống vải thổ cẩm, rượungô Quản Bạ, bánh ngô, xôi ngũ sắc, cháo Âu Tẩu…Các làng du lịch văn hóa sẽđược xây dựng, lễ hội truyền thống của các dân tộc sẽ đ ược đầu tư để khôi phục vàphát triển.Với hệ thống “rừng đá” điệp trùng có rất nhiều hang động tự nhiên và các khu bảotồn thiên nhiên đa dạng về sinh học (Khau Ca, Bát Đại Sơ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cao nguyên đá trước ngày chinh phục thế giới? (Kỳ 1) Cao nguyên đá trước ngày chinh phục thế giới? (Kỳ 1)Quanh năm “Bán mặt cho đá, bán lưng cho trời”, sống chết cùng với đánhưng cái đói, cái nghèo cứ “chảy” theo bà con dân tộc các huyện vùng caoHà Giang từ bao đời nay. Và rồi, ngày thoát nghèo mà họ hằng mơ ước cũngđang đến… Những em nhỏ đang trong độ tuổi đến trường cũng tham gia gùi vật liệu xây dựng kiếm thêm thu nhập cho gia đình.Sống nghèo trên đất…toàn đáNằm trên địa bàn các huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc (HàGiang), cao nguyên đá Đồng Văn rộng 2.347,63 km2, có hơn 23 vạn người sinhsống. Đây là địa bàn miền núi đá xa xôi hẻo lánh ở cực Bắc của tổ quốc, điều kiệntự nhiên vô cùng khó khăn và khắc nghiệt. Do điều kiện tự nhiên không thuận lợinên việc phát triển kinh tế của 17 dân tộc anh em ở miền khô khát n ày từ bao đờinay vẫn chỉ có trong tưởng tượng.Để có thể sống ở nơi bậc nhất khắc nghiệt này, rất nhiều bà con, chủ yếu là dân tộcMông họ đã phải trải qua hàng trăm năm để thích nghi với môi trường. Phần lớnngười dân tộc ở vùng cao nguyên đá đều không nói được tiếng phổ thông nên việcgiao lưu học hỏi của họ rất khó khăn, vì bất đồng ngôn ngữ.Cuộc sống ở miền cao nguyên đá hầu như không có ngày nghỉ, họ làm việc quầnquật quanh năm suốt tháng nhưng chất lượng sống vẫn chẳng được cải thiện làbao. Bởi một lý do đơn giản là để trồng được cây ngô (cây trồng chủ đạo của caonguyên đá) họ phải khom lưng gùi đất đổ vào từng hốc đá để lấy chỗ gieo hạt. Thếnhưng ở nơi hơn 85% diện tích đất tự nhiên là đá này, hàng nghìn người hàngngày bấu víu vào vách đá để sinh tồn.Chứng kiến hình ảnh những đứa trẻ mới lên năm, lên bảy lóc nhóc theo bố mẹ làmnhững công việc như một người trưởng thành, đó là hình ảnh đáng buồn. Tình cờchúng tôi gặp một em bé còng lưng gùi một gùi bắp ngô to gấp 3 lần cơ thể mình,hỏi ra mới biết em tên là Mai, ở thôn Mã Pì Lèng (Mèo Vạc) năm nay hơn 7 tuổi,em học lớp hai.Do cuộc sống khó khăn nên nhiều em nhỏ đã phải bươn chải từ rất sớm. Khichúng tôi có mặt tại “công trường” nhộn nhịp xây dựng cột cờ Lũng Cú có tớihàng chục em nhỏ tham gia làm “công nhân nhí”, người vác xi măng, người đậpđá…Chưa qua cái tuổi lớp bốn, lớp năm họ đã phải bán sức để kiếm sống.Hình ảnh đó khiến tôi nghĩ ngay đến sự học của những đứa trẻ nơi đây. Vì cuộcsống mưu sinh nhiều em nhỏ đã không được đến trường, những em may mắn hơnthì cũng chỉ học hết cấp 2. Trình độ dân trí thấp, theo đó là việc tuyên truyền cácchính sách của Đảng và nhà nước họ rất khó tiếp thu nên bài trừ các tập tục lạchậu và mê tin dị đoan là điều vô cùng khó khăn.Quen với những vách đá, cây ngô, quen với cái đói, cái nghèo, và cái điều mà baođời nay, những người sống trên cao nguyên đá không bao giờ nghĩ tới đã và đangđến với họ, khi đó cuộc sống của chính họ và nhiều đời sau nữa sẽ khác với nhữnggì mà cha ông đã trải qua. Hẻm vực Tu Sản, nhìn từ Mã Pí LèngCông viên… “thoát nghèo”Nhờ tích hợp nhiều kiểu di sản địa chất có giá trị cần được bảo tồn và khai tháccho thế hệ tương lai mà cao nguyên đá Đồng Văn, “mảnh đất” toàn đá nơi hàngvạn người dân đang sinh sống, đã được chính quyền địa phương và nhà khoa họclựa chọn làm Công viên địa chất đầu tiên của Việt Nam. “Khi công viên địa chấtđược UNESCO công nhận, đó sẽ là con đường thoát nghèo của hàng nghìn ngườidân cao nguyên đá”, ông Ma Ngọc Giang, Giám đốc ban quản lý công viên địachất cao nguyên đá Đồng Văn chia sẻ đầy tin tưởng.Như lời ông Giang, việc công viên địa chất được công nhận, đó là giải pháp tối ưuđể vừa bảo tồn các giá trị đa dạng về di sản thiên nhiên và nhân văn vừa giúpngười dân thoát khỏi cảnh nghèo khó, vươn lên làm giàu trên chính quê hươngmình.Nếu như cao nguyên đá Đồng Văn đươc UNESCO chính thức công nhận là côngviên địa chất thì sẽ được cả thế giới biết đến, từ đó sẽ có thể phát triển nhiều dạngdu lịch khám phá phong phú. Chẳng hạn, có thể thiết kế cho du khách đi ô tô thămcổng trời Quản Bạ, Núi Cô Tiên, Khu di tích kiến trúc nhà Vương, đèo Mã PìLèng hay đi bộ, cưỡi ngựa leo núi thám hiểm các hang động.Tuyến du lịch mạo hiểm bằng xuồng máy, xuồng cao su, ca nô dọc các sông NhoQuế, sông Nhiệm, sông Miện…cũng hứa hẹn sẽ vô cùng hấp dẫn. Sẽ có nhiềukhách du lịch trong và ngoài nước đến thăm quan, học tập và nghiên cứu, tìm hiểucác giá trị di sản thiên nhiên và nhân văn của Công viên địa chất.Ông Ma Ngọc Giang cho biết thêm việc phát triển mô hình du lịch sẽ khai thác thếmạnh của địa phương, chẳng hạn như các đặc sản truyền thống vải thổ cẩm, rượungô Quản Bạ, bánh ngô, xôi ngũ sắc, cháo Âu Tẩu…Các làng du lịch văn hóa sẽđược xây dựng, lễ hội truyền thống của các dân tộc sẽ đ ược đầu tư để khôi phục vàphát triển.Với hệ thống “rừng đá” điệp trùng có rất nhiều hang động tự nhiên và các khu bảotồn thiên nhiên đa dạng về sinh học (Khau Ca, Bát Đại Sơ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
du lịch Hà Giang du lịch trong nước du lịch Việt Nam địa điểm du lịch du lịch qua ảnh kinh nghiệm du lịch mẹo đi du lịchTài liệu liên quan:
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 1
144 trang 328 2 0 -
10 trang 92 0 0
-
Tiểu luận: Quảng bá phát triển du lịch Tri Tôn hiện nay - thực trạng và giải pháp
29 trang 85 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 1
73 trang 58 0 0 -
Du lịch Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức
6 trang 56 0 0 -
15 trang 56 0 0
-
Tìm hiểu về du lịch Việt Nam qua 26 di sản thế giới: Phần 1
128 trang 47 0 0 -
5 trang 46 0 0
-
146 trang 43 0 0
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 2
176 trang 43 0 0