Đau thần kinh tọa là một hội chứng rất thường gặp ở tuổi trung niên, nam nhiều hơn nữ, nhất là những người lao động chân tay. Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó thoát vị đĩa đệm gây chèn ép rễ thần kinh là nguyên nhân thường gặp nhất (60-90%). Ngoài sự chèn ép cơ học gây kích thích các rễ thần kinh còn có sự tham gia của các chất trung gian hóa học gây viêm.Tác động của tổn thương dây thần kinh tọa do thoát vị Bệnh cảnh điển hình là sau một gắng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cập nhật biện pháp điều trị đau thần kinh tọa Cập nhật biện pháp điều trị đau thần kinh tọa Đau thần kinh tọa là một hội chứng rất thường gặp ở tuổi trung niên,nam nhiều hơn nữ, nhất là những người lao động chân tay. Bệnh do nhiềunguyên nhân khác nhau, trong đó thoát vị đĩa đệm gây chèn ép rễ thần kinhlà nguyên nhân thường gặp nhất (60-90%). Ngoài sự chèn ép cơ học gây kíchthích các rễ thần kinh còn có sự tham gia của các chất trung gian hóa học gâyviêm. Tác động của tổn thương dây thần kinh tọa do thoát vị Bệnh cảnh điển hình là sau một gắng sức xuất hiện đau, khởi đầu là đaulưng, vài giờ hoặc vài ngày sau đau tiếp tục tăng lên và lan xuống mông, khoeo vàcẳng bàn chân theo dường đi của dây thần kinh tọa. Có khi đau âm ỉ nhưng thườngđau dữ dội, đau tăng khi ho, hắt hơi, cúi. Đau giảm khi nằm yên trên giường cứng,gối co lại. Cảm giác kiến bò, tê cóng hoặc như kim châm bờ ngoài bàn chân chéoqua mu chân đến ngón cái (rễ TL5), ở gót chân hoặc ngón út (rễ S1). Một số bệnhnhân bị đau ở hạ bộ và đau khi đại tiểu tiện do tổn thương rộng xâm phạm các rễthuộc đám rối thần kinh đuôi ngựa. Thăm khám lâm sàng phát hiện tình trạng cocứng cơ cạnh cột sống, cột sống mất đường cong sinh lý, vẹo cột sống, các tư thếchống đau, gãy khúc đường gai sống... Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnhhiện đại, đặc biệt là chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ có thể phát hiệnnhững trường hợp có phồng, lồi (protrusion) hoặc thoát vị đĩa đệm (herniation) màkhông có triệu chứng lâm sàng. Khám kỹ lâm sàng có thể định khu được đĩa đệm bị tổn thương như trongtrường hợp kích thích rễ L5: Phản xạ gân gót bình thường, giảm hoặc mất cảmgiác phía ngón cái (có thể tăng ở giai đoạn kích thích), không đi được bằng gót,teo nhóm cơ cẳng chân trước ngoài, các cơ mu chân. Hay trong trường hợp kíchthích rễ S1: Phản xạ gót giảm hoặc mất, cảm giác giảm hoặc mất phía ngón út,không đi được bằng mũi chân, teo cơ bắp cẳng chân, cơ gan bàn chân. Cập nhật các biện pháp điều trị Điều trị nội khoa: Bệnh nhân cần có chế độ bất động trong giai đoạn đau cấp tính. Nhữngkhuyến cáo gần đây là nên cho vận động sớm ngay khi đau giảm tùy theo cảmnhận của bệnh nhân nhằm tăng khả năng của cơ cột sống. Cũng có thể kết hợp vậtlý liệu pháp: dùng nhiệt, xoa nắn chỉnh hình, điện xung, sóng ngắn, châm cứu, kéogiãn cột sống. Thuốc chống viêm giảm đau không steroid có thể dùng dạng tiêm giai đoạncấp, sau đó thay bằng đường uống trong vòng 2-3 tuần. Thuốc giãn cơ dùng khi cóco cứng cơ cạnh cột sống. Tiêm corticoid ngoài màng cứng được áp dụng từ hơn50 năm nay, tuy nhiên, khi theo dõi lâu dài một số nghiên cứu nhận thấy phươngpháp này không hơn gì phương pháp giả dược khi đánh giá về tác dụng giảm đauvà tỷ lệ bệnh nhân phải phẫu thuật. Điều trị can thiệp: Kỹ thuật tiêm trực tiếp vào đĩa đệm làm tiêu nhân nhàybằng Chymopapaine, gần đây kỹ thuật này rất ít sử dụng do tai biến nhiều (dị ứng,vôi hóa đĩa đệm). Phương pháp làm giảm áp đĩa đệm bằng laser và lấy nhân nhàyqua da bằng tay. Gần đây điều trị thoát vị đĩa đệm bằng sóng có tần số radio cũngbắt đầu được thực hiện ở nước ta. Phẫu thuật: Chỉ định phẫu thuật trong các trường hợp sau: đau rất nhiều,liên tục, không giảm khi nghỉ ngơi hay dùng thuốc giảm đau, có biểu hiện liệt hayyếu một phần hay toàn bộ cơ lực của các nhóm cơ mà do các rễ thần kinh chi phối.Mất phản xạ gân gót luôn luôn tồn tại trong thể liệt nặng, nhưng nếu chỉ mất phảnxạ gân gót đơn độc mà không kèm với liệt vận động thì không phải là một dấuhiệu của sự nặng bệnh và triệu chứng đó thường tồn tại cả sau khi đã hết đau. Cóhội chứng đuôi ngựa: thường gặp trong đau rễ L5 (khối thoát vị lớn, thể trung tâm)biểu hiện bằng rối loạn cơ tròn (bí hay đại tiểu tiện không tự chủ); đau thần kinhtọa kiểu nhiều rễ và hai bên; giảm hay mất cảm giác vùng yên ngựa (vùng tầngsinh môn); mất phản xạ gân gót. Điều trị nội khoa đúng phương pháp trên 3 thángmà không có kết quả. Kỹ thuật mổ nội soi ít xâm lấn được áp dụng trong những năm gần đây vàngày càng phát triển vì tính chất ưu việt của phương pháp: ít xâm lấn, ít gây tổnthương tổ chức, đặc biệt là giảm nguy cơ xơ hóa sau phẫu thuật. Phương pháp điều trị phẫu thuật cho tỷ lệ thành công khá cao: từ 70-90%các truờng hợp tùy theo các phương pháp phẫu thuật. Triệu chứng đau kiểu rễ thầnkinh thường biến mất sau mổ nhưng triệu chứng đau thắt lưng có thể tồn tại kéodài. Tóm lại: Phần lớn các trường hợp đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm cóthể điều trị khỏi bằng phương pháp nội khoa bảo tồn. Chỉ có khoảng 20 % cáctrường hợp phải điều trị can thiệp và phẫu thuật. Kết quả điều trị phẫu thuật phụthuộc vào sự đúng đắn của chỉ định phẫu thuật và độ chính xác của phương phápphẫu thuật. Trong tương lai, chúng ta ngày càng có các phương pháp điều trị hiệuquả ...