Trong nhiều thế kỷ trước, con người đã biết cách dùng nấm để trị các chứng viêm. Tại Anh, vào giữa thế kỷ XVII, John Parkinson, một vị thầy thuốc hoàng gia đã biết cách chữa trị các vết thương bằng cách dùng rêu áp lên để vết thương chóng khỏi. Đến cuối thế kỷ XIX, ở nhiều vùng tại Anh, các mảnh bánh mỳ mốc được dùng để chữa vết thương nhưng đây chỉ là những chuyện xảy ra trước khi bác sĩ Alexander Flemming phát hiện ra penicillin....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Câu chuyện về penicillin Câu chuyện về penicillinTrong nhiều thế kỷ trước, con người đã biết cách dùngnấm để trị các chứng viêm. Tại Anh, vào giữa thế kỷXVII, John Parkinson, một vị thầy thuốc hoàng gia đãbiết cách chữa trị các vết thương bằng cách dùng rêu áplên để vết thương chóng khỏi. Đến cuối thế kỷ XIX, ởnhiều vùng tại Anh, các mảnh bánh mỳ mốc được dùngđể chữa vết thương nhưng đây chỉ là những chuyện xảyra trước khi bác sĩ Alexander Flemming phát hiện rapenicillin.Sự phát hiện tình cờNăm 1928, Flemming là nhà vi khuẩn học làm việc tạiBệnh viện Saint Mary ở London. Trong khi kiểm tra cácđĩa nuôi cấy chứa vi khuẩn, ông phát hiện hiện tượng khácthường: nấm xuất hiện trên đĩa và phát triển thành các tảngnấm; xung quanh tảng nấm, những mảng vi khuẩn đã bịphá hủy. Ông kết luận rằng, nấm này đã tạo 1 chất giết chếtcác vi khuẩn. Chất này giống enzym là lysozym mà ông đãphát hiện ra vài năm trước. Chất này có thể giết vi khuẩngây bệnh tên Staphylococcus. Tuy nhiên, khi thử trênnhững loại nấm khác vẫn tiếp tục phát triển, do vậyFlemming chỉ dùng dung dịch với mục đích chính là chẩnđoán bệnh.Penicillin được Alexander Flemming phát hiện ra một cáchrất tình cờ.Loại nấm mọc giống như dạng các bụi cây này sau đượcđặt tên khoa học là penicillium notatum, còn chất có khảnăng tiêu diệt vi khuẩn được đặt là pennicillin. Ban đầu,penicillin được dùng chữa các vết thương bề mặt, nó chỉmang lại thành công nhất định vì trong penicillin thô có rấtít các hoạt chất. Flemming đã cố gắng tách penicillinnguyên chất nhưng không thành công. Do vậy, mối quantâm về penicillin của ông cũng giảm đi.10 năm sau, ở Oxford, dưới sự chỉ đạo của Howara WalterFlorey – nhà giải phẫu bệnh học người Australia và ErnstBoris Chain đã nghiên cứu các đặc điểm hóa sinh củalysozym, loại enzym tiêu diệt các vi khuẩn mà Flemmingphát hiện ra.Sau khi công trình nghiên cứu về lysozym hoàn thành,Florey và Chain bắt đầu đi tìm đề tài nghiên cứu mới và haiông chú ý đến penicillin, công trình gần như bị lãng quêncủa Flemming.Vào năm 1938, Chain và Florey đều bị cuốnhút bởi penicillin, về khả năng nó có thể mang lại cho loàingười và họ ý thức rõ ý nghĩa cũng như tầm quan trọng củachất kháng khuẩn này.Chain thiết lập môi trường nuôi cấy và thực hiện việc táchpenicillin từ những mẫu nấm của Flemming, còn Florey tậptrung vào thí nghiệm thử penicillin trên động vật.Ngày 25/5/1940, các nhà khoa học thử nghiệm thuốc trênchuột. Cuộc thí nghiệm rất thành công. Tuy nhiên, trướckhi thử nghiệm trên người, các nhà khoa học phải tạo đượcpenicillin nguyên chất. Đây là vấn đề then chốt. Công việcnày giao cho Edward Abraham đảm nhiệm.Edward Abraham nghiên cứu tìm ra được kỹ thuật tách saunày gọi là sắc ký hấp phụ (adsorption chromatography).Dung dịch nuôi cấy nấm có chứa penicillin được đưa quacác ống chứa đầy các chất hấp phụ; chúng sẽ tách penicillinkhỏi các tạp chất.Phòng thí nghiệm của Florey nhanh chóng chuyển thànhmột nhà máy nhỏ, các ống nghiệm chứa đầy penicillin đượctheo dõi tỉ mỉ. Tuy nhiên, sản lượng của nhà máy vẫn cònthấp, 500 lít chất lỏng nuôi cấy chỉ sản xuất ra lượngpenicillin đủ chữa cho 4 hoặc 5 người.Sau đó, công trình được chuyển sang Mỹ, lúc này, mụcđích của các nhà khoa học là chế tạo penicillin trên quy môcông nghiệp. Nhiều kỹ thuật như dùng tia cực tím, tia X vàcác chất hóa học tác động đến cấu trúc di truyền của nấmđều được sử dụng nhằm tạo ra chủng penicillin với sảnlượng cao. Năm 1943, dự án chế tạo penicillin đứng thứ nhìtrong danh sách các công trình ưu tiên sau dự án Mahattanchế tạo bom nguyên tử. Năm 1944, một ca chữa trị bằngpenicillin tốn 200 đô-la, tuy nhiên, giá này nhanh chónggiảm xuống, rẻ hơn cả giá đóng gói sản phẩm. Năm 1945,Flemming, Chain và Florey được trao tặng giải thưởngNobel y học.Vũ khí chống nhiễm khuẩnTác dụng của penicillin khiến nó trở thành một loại thuốcđặt biệt. Nó có tác dụng ngăn cản các vi khuẩn gây bệnhtổng hợp lớp vỏ tế bào bảo vệ chúng. Khi vi khuẩn sinh sảntức khi hiện tượng phân chia tế bào diễn ra, vi khuẩn phảitự tạo lớp vỏ tế bào bảo vệ chúng chống lại các tác nhânxâm phạm từ môi trường bên ngoài. Penicillin có tác dụnglàm suy yếu lớp vỏ tế bào vi khuẩn này; do không còn lớpvỏ bảo vệ vững chắc, tế bào vi khuẩn sẽ bị hủy hoại và vikhuẩn sẽ chết đi.Penicillin tiêu diệt vi khuẩn mà không gây hại cho tế bàocơ thể. Thế nhưng ngày càng có nhiều họ vi khuẩn khángđược penicillin, vũ khí của chúng là penicillinase, mộtenzym có khả năng phá hủy cấu trúc hóa học của penicillin,làm cho penicillin không còn tác dụng.Con người đã phát hiện pencillin trong cuộc đấu tranhchống lại vi khuẩn gây bệnh nhưng theo luật tiến hóa,chúng cũng có vũ khí chống lại. Penicillin chỉ là một trongsố những kháng sinh có sẵn trong thiên nhiên có khả nănggiết chết vi khuẩn. Sau penicillin, nhiều kháng sinh khác đãđược tìm ra.Năm 1934, Selman Waksman và Albert Schatz tìm ra đượcmột loại khá ...