Thông tin tài liệu:
Tiếp nội dung phần 1, cuốn sách Nghiên cứu đặc điểm các trường địa vật lý và cấu trúc sâu vùng biển Việt Nam phần 2 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: đặc điểm cấu trúc sâu thềm lục địa Việt Nam và biển đông; đặc điểm địa chấn-địa động lục thềm lục địa Việt Nam và biển đông; độ nguy hiểm động đất và sóng thần. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cấu trúc sâu vùng biển Việt Nam và nghiên cứu đặc điểm các trường địa vật lý: Phần 2
113
Chuong 4
ĐẬC ĐIẺM CẤU TRÚC SÂU THÈM LỤC ĐỊA
VIỆT NAM VÀ BIẺN ĐÔNG
4.1. Cấu trúc các ranh giói cơ bản vỏ Trái đất
4.1.1. M ặt ranh g ió i M oho
Nếu như trong giới hạn toàn Biển Dông, độ sâu bề mặt Moho biến đối trong
những giá trị từ 10 lên 30km và có hướng cấu trúc chù đạo Đông Bắc - Tây Nam
với những phàn dị phức tạp theo nhiều hướng khác nhau như, kinh tuyến, vĩ
tuyến, Tây Bắc - Dông Nam, thì trong phạm vi vùng thềm lục địa Việt Nam độ
sâu mặt Moho có giá trị lớn gần 30km dọc đường ven biển và giảm dần đến
25km ờ trung tâm các bồn trũng Kainozoi. ở vùng quần đảo Trường Sa ta thấy
mặt Moho biến đổi địa hình trong giới hạn độ sâu từ 17 - 18km đến 23 - 24km và
có cấu trúc khá phân dị. Ở phía ranh giói vói vùng nâng trung tâm Riển Đông
mặt Moho nâng lên cao đột ngột, chạy theo hướng Đông Bấc với đường đẳng sâu
17 - 18km. v ề phía Đông Nam, nơi tiếp giáp với trũng trầm tích Palawan độ sâu
mặt Moho cũng thay đổi khá đột ngột hình thành một rãnh sâu hướng Đông Bắc
với độ sâu trung bình 24 - 25km và nâng dần về phía trục của móng sâu Palawan.
Phía Tây Nam, nơi tiếp giáp với thềm lục địa Việt Nam độ sâu mặt Moho tăng
dần đến 24 - 25km và tiếp tục chìm sâu hơn về phía dưới vùng trũng Nam Côn
Sơn. Phía Đông và Đông Bẳc cũng bị khống chế bàng đường đồng mức 24km, về
phía bãi ngầm Reed Band độ sâu mặt Moho tiếp tục tăng lên dần 26 - 27km tạo
nên một khối cấu trúc dạng gần tròn với bề dày vỏ 27 - 28km. Bên trong vùng
quần đào Trường Sa cấu trúc bề mặt Moho khá phân dị, hình thành các cấu trúc
âm và dương có dạng khối và dạng tuyến tính, với biên độ trung bình 2 - 3km và
114 Bùi Công Quế, Trần Tuấn Dũng, Nguyễn Hồng Phương
lớn hom. Vùng trung tâm quần đào giữa các kinh tuyến 110 và 113, giữa các vĩ
tuyến 8 và 9 là một vùng lún chìm tới 24 - 25km, có hướng cấu trúc Đông - Đông
Bắc. Ở phía Đông Nam và Nam là hai dải nâng hẹp của mặt Moho có hướng
Đông - Đông Bắc với độ sâu trung bình 20 - 23km. Phía Tây và Tây Nam cũng là
một gờ nâng hẹp với độ sâu thế nằm tương tự. v ề phía Tây Bấc và Đông Bấc là
một vách nâng đột ngột như đã nêu với các dường đảng sâu 10 - 18km. Phía
Đông vùng quần đảo có sự phân dị cấu trúc mặt Moho rất đặc biệt. Giữa các kinh
tuyến 114 và 115 là dải lún chìm hẹp với độ sâu trung bình 25 - 26km và có
hướng kinh tuyến rõ rệt. Từ kinh tuyến 115 trờ đi cho đến 120 là vùng cấu trúc
mặt Moho có hướng Đông - Đông Băc và độ sâu thay đồi từ 23 - 24km đến
27 - 28km và cấu trúc có dạng khối lớn [27, 31, 35, 37].
85 1 00 105 110 115 120 125
Hình 4.1. Bản đồ đẳng sâu mặt Moho
Chương 4 . ĐẠC ĐIẾM CAU TRÚC SÂU THÊM LỤC ĐỊA VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐỔNG Ị 15
Tóm lại, bình đồ cấu trúc cùa mặt moho trên vùng biển Việt Nam và trong
vùng quần đào Trường Sa cho thấy tính phân dị và chia cát khá nồi bật với hướng
cấu trúc Đông, Đông Bắc và kinh tuyến. Giá trị bề dày vỏ ờ đây thay đổi trong
phạm vi lớn từ 16 - 17km đến 25 - 26km. Rõ ràng, đây là vùng có vỏ Trái đất với
tính chất biến dối chuyển tiếp giữa đại dương và lục dịa và gần với kiểu vỏ á lục
địa hơn cả. Trong khi đó, ờ phía Tây Bắc, trong phạm vi vùng trũng trung tâm
Biển Dông vò có bề dày từ 10 - 12km (kể cả lớp nước biển) đến 15 - 16km và
thuộc kiểu cỏ đại dương, còn dọc theo vùng máng sau Palawan, vỏ có bề dày
trung bình 17 - 18km và mang tính chất á đại dương [28, 35, 109, 110].
4.1.2. M ặt ranh g ió i C on rad và các m ặ t ranh g ió i sâu khác trong tầng
trầm tích
Đặc điểm cấu trúc bề mặt Conrad (mặt phân cách lớp Granit và lớp Bazan)
ở thềm lục địa Việt Nam và các vùng quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa có những
nét tương đồng và kế tục bình đồ cấu trúc bề mặt Moho, v ề giá trị độ sâu ta thấy
mặt conrad thay đổi từ giá trị 8 - 9km ở rìa phía Tây Bắc và Đông Nam, nơi tiếp
giáp với vùng trung tâm và trũng Palawan đến các độ sâu 14 - 16km ở rìa phía
Tây và Tây Nam, cũng như rìa phía Đông và Đông Nam của vùng. Mặt ranh giới
Conrad có cấu trúc phân dị và chia cắt mạnh, tạo nên các cấu trúc dạng khối
phức tạp với biên độ nâng và hạ xấp xi 2 - 3km. Hướng cùa các cấu trúc địa
phương thay đổi từ Đông, Đông Bắc sang hướng kinh tuyến. Nếu xét về biên độ
của các cấu trúc thì có thể thấy giữa mặt Conrad và Moho trong khu vực Truờng
Sa các giá trị này tương đương nhau, nhưng xét về kích thước của các cấu trúc thì
đối với bề mặt conrad giá trị này nhỏ hơn so với các cấu trúc tương ứng trên bề
mặt Moho đặc điểm kế tục và phân dị cấu trúc giữa hai mặt ranh giới này được
thể hiện rõ hơn nữa trên các mặt cắt cấu trúc tổng hợp vỏ Trái đất cắt qua vùng
quần đảo. Trên các mặt cắt này ta còn thấy được các đặc điểm phân dị cấu trúc
mạnh hơn nữa trên bề mặt móng cấu trúc bề mặt móng phần nào được phản ánh
116 Bùi Công Quế, Trần Tuấn Dũng, Nguyễn Hồng Phương
cụ thể và chi tiết trên bản đồ phân bố bè dày các trầm tích Kainozoi trong vùng
quần đào và kế cận.
Trên bản đồ phân bố bề dày trầm tích Kainozoi phần Nam Biển Đông ta
thấy trong phạm vi vùng Trường Sa và Hoàng Sa cấu trúc bề mặt móng bị chia
cắt mạnh với tính phân dị cấu trúc và dạng tuyến tính hướng Đông Bắc là chủ
đạo. Đặc điểm cấu trúc như vậy đã quyết định đặc điểm phân bố bề dày trầm tích
là rất phức tạp. Ở phần Tây Nam cùa vùng giữa kinh tuyến 110 và 112 ta thấy có
nhóm cấu trúc dạng địa hào hình thành những bẻ trầm tích có bề dày biến đối từ
lkm ở phần rìa lên đến 4 - 6 km ở phần trung tâm. Các đường đảng trị bề dày có
hướng Đông Bắc với chiều dài hàng chục tới hơn lOOkm. Đi về phía Bấc và
Đông Bấc ta thấy các địa hào có kích thước nhỏ và hẹp dần với bề dày trầm tích
từ 1 - 2km, cá biệt có một vài địa hào nhỏ với bề dày trầm tích 3km. ở về phía
Đông và Đông N ...