Danh mục

Cây hoa gạo

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 159.78 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hoa gạo là thứ cây rất quen thuộc đối với người dân nước ta, nhất là ở những vùng nông thôn miền Bắc. Cây hoa gạo có thể cao tới 15m hoặc hơn, cành mọc ngang với những gai hình nón, lá kép chân vịt với 5 - 8 lá chét hình mác hay hình trứng, dài chừng 9-15, rộng 4-5cm. Vào mùa xuân, lá gạo rụng hết, hoa bắt đầu nở đỏ tươi trên những cành nhỏ trước khi có mầm và lá non, khiến cả cây gạo bừng lên một sắc màu tươi thắm hết sức ấn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cây hoa gạo Cây hoa gạo Hoa gạo là thứ cây rất quen thuộc đối với người dân nước ta, nhất là ởnhững vùng nông thôn miền Bắc. Cây hoa gạo có thể cao tới 15m hoặc hơn,cành mọc ngang với những gai hình nón, lá kép chân vịt với 5 - 8 lá chéthình mác hay hình trứng, dài chừng 9-15, rộng 4-5cm. Vào mùa xuân, lá gạorụng hết, hoa bắt đầu nở đỏ tươi trên những cành nhỏ trước khi có mầm và lánon, khiến cả cây gạo bừng lên một sắc màu tươi thắm hết sức ấn tượng.Người ta yêu cây gạo không những vì vẻ đẹp của nó, mà còn vì các bộ phậncủa cây như hoa, vỏ thân và rễ đều có thể dùng làm thuốc chữa bệnh. Công dụng Cây hoa gạo còn được gọi là Mộc miên, cổ bối, ban chi hoa, anh hùngthụ... Tên khoa học là Gossampinus malabarica (DC). Merr., thuộc họ Gạo(Bombaceae). Vỏ thân chứa nhiều chất nhầy; Hoa chứa 85,66% nước, 1,38%chất đạm, 11,95% chất đường, 1,09% chất khoáng; Hạt chứa 25% tinh dầu.Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, nước sắc hoa gạo có tác dụng ứcchế trực khuẩn lỵ mạnh hơn so với Chloromycetine và Berberine. Theo dược học cổ truyền, vỏ cây gạo vị cay, tính b ình, có công dụngthanh nhiệt lợi thấp, hoạt huyết tiêu thũng, thường được dùng để chữa cácchứng bệnh như viêm loét dạ dày, đi lỏng, kiết lỵ, đau khớp cổ chân và khớpgối, viêm loét ngoài da, chấn thương do trật đả...; Hoa gạo vị ngọt, tính mát,có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, giải độc chỉ huyết, thường dùng để trị tiếttả (đi lỏng), lỵ tật (kiết lỵ), băng huyết, sang độc (viêm loét, nhọt độc), xuấthuyết do chấn thương...; Rễ gạo vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lợithấp, thu liễm chỉ huyết (giải nhiệt và thấp trong cơ thể, cầm máu và thu sáp,băng se vết thương), thường được dùng để chữa viêm loét dạ dày, xích lỵ(kiết lỵ phân có máu), loa lịch (lao hạch), sản hậu nhũ thũng (sưng vú saukhi sinh con), tổn thương do trật đả. Trong các y thư cổ như Bản thảo cươngmục, Bản thảo cầu nguyên, Sinh thảo dược tính bị yếu, Lĩnh nam thái dượclục, Hồng nghĩa giác tư y thư, Hải Thượng y tông tâm lĩnh..., các bộ phậncủa cây gạo đều được sử dụng để làm thuốc với những kiến giải khá độcđáo. Một số cách dùng hoa gạo để chữa bệnh Viêm khí phế quản cấp tính: rễ gạo 30g sắc uống  Ho khạc nhiều đờm do phế nhiệt: hoa gạo 15g, ngư tinh thảo (rau diếp cá) 15g, tang bạch bì 10g, sắc uống. Nôn ra máu: hoa gạo 14 bông, thịt lợn nạc 100g. Hoa gạo rửa sạch, thái nhỏ; Thịt lợn thái miếng. Hai thứ nấu canh ăn. Ho ra máu: hoa gạo 14 bông sắc kỹ, chế thêm một chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Viêm loét dạ dày: rễ, hoa hoặc vỏ thân cây gạo 15-30g, sắc uống. Rễ, hoa hoặc vỏ thân cây gạo 30g, rễ cây lưỡng diện châm(Zanthoxylum nitidum) 6g, sắc uống. Lỵ trực khuẩn, viêm ruột và dạ dày cấp tính, đi lỏng, đại tiện ra máu: (1) hoa gạo 60g, sắc kỹ, chế thêm một chút mật ong hoặc đường phèn,chia uống vài lần trong ngày. (2) Hoa gạo 15g, kim ngân hoa 15g, phượngvĩ thảo (cỏ seo gà) 15g, sắc uống. (3) Hoa gạo 15-30g sắc kỹ, chia uống 3lần trong ngày. Sưng đau vú sau khi sinh con: hạt cây gạo 10g, sao vàng sắc uống. Trẻ em sốt cao vào mùa hè: hoa gạo 6g, sắc kỹ, chế thêm chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Viêm khớp mạn tính, đau lưng và đau gối mạn tính: rễ gạo 30- 60g, sắc hoặc ngâm rượu uống. Hoặc vỏ thân cây gạo 15g, sắc kỹ, bỏ bã, chếthêm một chút rượu vang, chia uống 2 lần trong ngày. Tiểu tiện không thông: Chất gôm cây gạo 10g, kim ngân dây 20g, hạ khô thảo 20g, sắc với 750ml nước, cô còn 300ml chia uống 3 lầntrong ngày. Sưng nề do chấn thương: Vỏ thân hoặc rễ cây gạo ngâm rượu xoa ngoài hoặc giã nát đắp vào vị trí tổn thương. Hoặc vỏ thân cây gạo 100g,củ nghệ vàng già 100g. Vỏ gạo cạo bỏ vỏ bẩn ở ngoài, băm nhỏ, giã nát vớinghệ thái mỏng, dùng dấm thanh và rượu cho vào sao rồi chườm hoặc đắpvào vết thương khi còn nóng. Ngứa vùng hậu môn sinh dục: vỏ thân cây gạo sắc lấy nước ngâm rửa nơi bị bệnh. Trĩ xuất huyết: hoa gạo 20g, quyển bá 10g, hòe hoa 15g, sắc uống. Bong gân: (1) vỏ cây gạo 16g (cạo bỏ vỏ ngoài, sao rượu), lá lốt 16g (sao vàng), sắc với 750ml nước, cô còn 250ml, chia uống 2 lần trongngày. (2) Lá náng, quả đu đủ non và vỏ thân cây gạo, ba thứ lượng bằngnhau, rửa sạch, giã nhuyễn, băng tổn thương. (3) Rau má tươi, vỏ thân câygạo tươi, vòi voi tươi và bồ công anh tươi, bốn thứ lượng bằng nhau, rửasạch, giã nát, bó vào nơi bị bệnh. (4) Lá náng 1 phần, vỏ thân cây gạo gọt bỏvỏ cứng thái nhỏ 1 phần, dọc cây đu đủ 1 phần. Ba thứ giã nát, sao với một ítrượu và nước tiểu trẻ em rồi chườm vào tổn thương. Gãy xương: sau khi nắn ...

Tài liệu được xem nhiều: