Cây thuốc vị thuốc Đông y - CÂY MỎ QUẠ
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 140.38 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cây thuốc vị thuốc Đông y - CÂY MỎ QUẠCÂY MỎ QUẠTên khác: Hoàng lồ, Vàng lồ, Xuyên phá thạch.Tên khoa học: Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur, họ Dâu tằm (Moraceae).Mô tả: Cây nhỏ, thân mềm yếu, nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọc thành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khỏe, có nhựa mủ trắng, rễ hình trụ có nhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được (do đó có tên xuyên phá thạch có nghĩa là phá chui qua đá). Vỏ thân màu tro nâu, trên có nhiều bì khổng màu trắng,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cây thuốc vị thuốc Đông y - CÂY MỎ QUẠ Cây thuốc vị thuốc Đông y - CÂY MỎ QUẠ Cây Mỏ quạCÂY MỎ QUẠTên khác: Hoàng lồ, Vàng lồ, Xuyên phá thạch.Tên khoa học: Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur, họ Dâu tằm(Moraceae).Mô tả: Cây nhỏ, thân mềm yếu, nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọcthành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khỏe, có nhựa mủ trắng, rễ hình trụ cónhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được (dođó có tên xuyên phá thạch có nghĩa là phá chui qua đá). Vỏ thân màutro nâu, trên có nhiều bì khổng màu trắng, thân và cành có rất nhiềugai, gai già hơi cong xuống trông như mỏ con quạ (do đó có tên cây mỏquạ). Lá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng,mép nguyên. Nhấm có vị tê tê ở lưỡi (đặc điểm). Cụm hoa hình cầu,đường kính 7-10mm, màu vàng nhạt, mọc thành đôi hay mọc đơn độc ởkẽ lá. Hoa đơn tính, đực cái khác gốc. Mùa hoa tại Hà Nội là tháng 4.Quả màu hồng họp thành quả kép. Mùa quả tháng 10-11.Bộ phận dùng: Lá, rễ.Phân bố: Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Thu hái: Thường dùng lá tươi, có khi hái cả cành về nhà mới bứt láriêng. Còn dùng rễ, đào về rửa sạch đất, cắt thành từng mẩu 30-50cm,phơi hay sấy khô. Vỏ ngoài màu vàng đất, vết cắt màu vàng nhạt, vị hơitê tê.Thành phần hoá học: Flavonoid.Công dụng: Chữa vết thương phần mềm.Cách dùng, liều lượng:Lá mỏ quạ tươi đã được dùng chữa vết thương phần mềm theo kinhnghiệm của cụ lang Long (Hải Dương) như sau: Chủ yếu dùng lá mỏquạ tươi, rồi tùy theo vết thương, thêm một hai vị khác. Lá mỏ quạ tươilấy về rửa sạch, bỏ cọng, giã nhỏ đắp vào vết thương. Nếu vết thươngxuyên thủng thì phải đắp cả hai bên, băng lại. Mỗi ngày rửa và thaybăng một lần. Thuốc rửa vết thương là lá trầu không nấu với nước (40glá trầu, 2 lít nước, nấu sôi để nguội, thêm vào đó 8g phèn phi, hòa tan,lọc và dùng rửa vết thương). Sau 3-5 ngày đã đỡ, khi đó hai ngày mớicần rửa và thay băng một lần.Trường hợp vết thương tiến triển tốt nhưng lâu đầy thịt thì thay thuốcsau: Lá mỏ quạ tươi và lá thòng bong, hai vị bằng nhau, giã lẫn cả haithứ đắp lên vết thương, mỗi ngày rửa và thay băng một lần. 3-4 ngàysau lại thay thuốc sau: lá mỏ quạ tươi, lá thòng bong, lá hàn the(Desmodium heterophyllum DC.) ba thứ bằng nhau, cứ 3 ngày mớithay băng một lần để vết thương chóng lên da non.Sau 2-3 lần thay băng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bộtchế bằng phấn cây cau (sao khô) 20g, phấn cây chè (sao khô) 16g, ôlong vĩ (bồ hóng) 8g, phèn phi 4g. Các vị tán mịn, trộn đều rắc lên vếtthương rồi để yên cho vết thương đóng vẩy và róc thì thôi.Rễ được dùng trong nhân dân ta và ở Trung Quốc (Quảng Tây) làmthuốc khứ phong, hoạt huyết phá ứ, chữa ứ tích lâu năm, bị đả thương,phụ nữ kinh bế. Ngày dùng 10-30g rễ dưới dạng thuốc sắc. Theo kinhnghiệm nhân dân, phụ nữ có thai không dùng được.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cây thuốc vị thuốc Đông y - CÂY MỎ QUẠ Cây thuốc vị thuốc Đông y - CÂY MỎ QUẠ Cây Mỏ quạCÂY MỎ QUẠTên khác: Hoàng lồ, Vàng lồ, Xuyên phá thạch.Tên khoa học: Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur, họ Dâu tằm(Moraceae).Mô tả: Cây nhỏ, thân mềm yếu, nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọcthành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khỏe, có nhựa mủ trắng, rễ hình trụ cónhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được (dođó có tên xuyên phá thạch có nghĩa là phá chui qua đá). Vỏ thân màutro nâu, trên có nhiều bì khổng màu trắng, thân và cành có rất nhiềugai, gai già hơi cong xuống trông như mỏ con quạ (do đó có tên cây mỏquạ). Lá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng,mép nguyên. Nhấm có vị tê tê ở lưỡi (đặc điểm). Cụm hoa hình cầu,đường kính 7-10mm, màu vàng nhạt, mọc thành đôi hay mọc đơn độc ởkẽ lá. Hoa đơn tính, đực cái khác gốc. Mùa hoa tại Hà Nội là tháng 4.Quả màu hồng họp thành quả kép. Mùa quả tháng 10-11.Bộ phận dùng: Lá, rễ.Phân bố: Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta.Thu hái: Thường dùng lá tươi, có khi hái cả cành về nhà mới bứt láriêng. Còn dùng rễ, đào về rửa sạch đất, cắt thành từng mẩu 30-50cm,phơi hay sấy khô. Vỏ ngoài màu vàng đất, vết cắt màu vàng nhạt, vị hơitê tê.Thành phần hoá học: Flavonoid.Công dụng: Chữa vết thương phần mềm.Cách dùng, liều lượng:Lá mỏ quạ tươi đã được dùng chữa vết thương phần mềm theo kinhnghiệm của cụ lang Long (Hải Dương) như sau: Chủ yếu dùng lá mỏquạ tươi, rồi tùy theo vết thương, thêm một hai vị khác. Lá mỏ quạ tươilấy về rửa sạch, bỏ cọng, giã nhỏ đắp vào vết thương. Nếu vết thươngxuyên thủng thì phải đắp cả hai bên, băng lại. Mỗi ngày rửa và thaybăng một lần. Thuốc rửa vết thương là lá trầu không nấu với nước (40glá trầu, 2 lít nước, nấu sôi để nguội, thêm vào đó 8g phèn phi, hòa tan,lọc và dùng rửa vết thương). Sau 3-5 ngày đã đỡ, khi đó hai ngày mớicần rửa và thay băng một lần.Trường hợp vết thương tiến triển tốt nhưng lâu đầy thịt thì thay thuốcsau: Lá mỏ quạ tươi và lá thòng bong, hai vị bằng nhau, giã lẫn cả haithứ đắp lên vết thương, mỗi ngày rửa và thay băng một lần. 3-4 ngàysau lại thay thuốc sau: lá mỏ quạ tươi, lá thòng bong, lá hàn the(Desmodium heterophyllum DC.) ba thứ bằng nhau, cứ 3 ngày mớithay băng một lần để vết thương chóng lên da non.Sau 2-3 lần thay băng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bộtchế bằng phấn cây cau (sao khô) 20g, phấn cây chè (sao khô) 16g, ôlong vĩ (bồ hóng) 8g, phèn phi 4g. Các vị tán mịn, trộn đều rắc lên vếtthương rồi để yên cho vết thương đóng vẩy và róc thì thôi.Rễ được dùng trong nhân dân ta và ở Trung Quốc (Quảng Tây) làmthuốc khứ phong, hoạt huyết phá ứ, chữa ứ tích lâu năm, bị đả thương,phụ nữ kinh bế. Ngày dùng 10-30g rễ dưới dạng thuốc sắc. Theo kinhnghiệm nhân dân, phụ nữ có thai không dùng được.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Cây Mỏ quạ cây thuốc đông y vị thuốc đông y thảo dược y học cổ truyền đông dượcTài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 280 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 233 0 0 -
6 trang 183 0 0
-
120 trang 175 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 168 0 0 -
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 166 0 0 -
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 152 5 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 126 0 0 -
97 trang 125 0 0
-
Bài tiểu luận Triết học: Học thuyết âm dương, ngũ hành và vận dụng trong y, dược học cổ truyền
18 trang 125 0 0