CCNA OSPF
Số trang: 4
Loại file: doc
Dung lượng: 72.50 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
OSPF dùng giải thuật SPF để tính tóan đường đi. Giải thuật này còn được gọi là giải thuậtDijkstra. Các routing protocol nhóm link state không broadcast tòan bộ thông tin về bảng địnhtuyến giống như RIP/IGRP và thay vào đó, OSPF sẽ dùng một quá trình để khám phá các lánggiềng (neighbor). Các láng giềng cũng có thể được định nghĩa tĩnh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CCNA OSPFBài viết CCNA-OSPFTác giả: Đăng Quang Minh ̣Tài liệu tham khảo cho học viên CCNA của VnProOSPF dùng giải thuật SPF để tính tóan đường đi. Giải thuật này còn được gọi là giải thuậtDijkstra. Các routing protocol nhóm link state không broadcast tòan bộ thông tin về bảng địnhtuyến giống như RIP/IGRP và thay vào đó, OSPF sẽ dùng một quá trình để khám phá các lánggiềng (neighbor). Các láng giềng cũng có thể được định nghĩa tĩnh.Router láng giềng là các router khác, cũng chạy OSPF, có chung subnet với router hiện hành. Khicác router đã thiết lập quan hệ láng giềng với nhau, các router bắt đầu trao đổi các thông tin vềđồ hình (topology) của mạng. Giải thuật SPF sẽ chạy trên các database này để tính ra cácđường đi tốt nhất.Khi một interface được chỉ định chạy OSPF, các bước sau diễn ra:1. Xác định neighborsa. Bắt đầu ở Down state, router không trao đổi gì với ai.b. Sang Init state, router gửi hello packet để xác định neighbor. OSPF gửi packet Hello lần đầutiên và chờ nhận một gói Hello packet từ một OSPF router khác, chuẩn bị cho việc thiết lậpquan hệ : Two way hay Adjacency. Init state chỉ giúp router tìm các neighbor của nó thôi. Ở giaiđọan này, router chưa thiết lập adjacencyc. Two-way state, router nhận hello hình thành neighbors. Khi này các Router nhận ra neighbor,nhưng không thể share routing information cho nhau được. ; không có bầu chọn DR/BDR trongstate này. =>DR là router chính để phân phối cho các router còn lại.2. Hình thành Adjacencya. Vào Extart state: Gửi và nhận DBD (DataBase Description), từ đó chọn ra master/slave. Masterđược quyền gửi các DBD trước.b. Sang Exchange state: Master gửi DBD cho các slave, slave nhan DBD, so sánh với các thôngtin của nó, đồng thời gửi LSAck lại cho masterc. Loading state: Nếu một trong hai bên có thông tin đúng hơn, bên kia sẽ gửi yêu cầuLSRequest, bên này trả lại LSUpdate, bên kia nhận và trả lại LSAck. Trạng thái b, c lặp cho đénkhi chúng có cùng thông tind. Full state: Khi này, các router đã có database như nhau, chúng trở thành adjacency của nhau.Chỉ những Router là adjacency của nhau mới share routing information cho nhau- Trong serial link (point to point), các Router OSPF cũng tự bầu chọn DR/BDR, không nhấtthiết là trong multiaccessDR, BDR để làm gì?Khái niệm DR, BDR chỉ dùng khi interface của router nối vào broadcast-multiaccess segment.Để trao đổi được thông tin vói nhau, các router OSPF phải là các adjacent của nhau. Giả sửtrong segment có N router chạy OSPF và cùng thuộc một area. Nếu không có DR/BDR, cácrouter phải thiết lập quan hệ adjacency với nhau ==> có N*(N-1)/2 mối quan hệ. Và khi N*(N-1)/2 mqhệ này cùng gửi thông tin update thì ảnh hưởng đến performance của mạng là điềukhông tránh khỏi. Vì thế, DR sẽ đứng ra làm trung gian, nhận và phân phối các LSA từ cácrouter thành viên (cùng segment), sau đó phân phối đến các router còn lại. BDR chỉ là backup choDR. Thay vì có N*(N-1)/2 quan hệ, bạn chỉ có N-1 quan hệ vì các router chỉ tạo adjacency vớiDR thôi.Vậy nhưng ở mức neighbor, các router vẫn gửi các hello packet cho nhau (10s một lần)Trong ospf có sử dụng ba ID:* Router ID : Được gửi đi từ các router trong các gói tin hello.Nó có độ dài 32bit.No có giá trịbằng địa chỉ địa chỉ IP lớn nhất được sủ dụng trên router.Nếu trên router có giao diện loopbackđược cấu hình thì router ID bằng địa chỉ IP của giao diện loopback đó.Trong trường hợp cónhiều giao diện loopback thì nó lấy địa chỉ lớn nhất của giao diện loopback làm routerID.Router ID được sử dụng để phân biệt các router nằm trong cùng một autonmous system.* Process ID : là tham số cấu hình khi ta đánh lệnh router ospf process-id.*Area ID: là tham số để group một nhóm các router vào cùng một area.Các router này cùng chiasẻ hiểu biết về các đường học được trong miền OSPF.Việc chia thành nhiều area là để tiện việc quản lý đồng thời nó giúp ta giới hạn kích thước củatopology database, giả sử nếu ta có duy nhất một vùng với kích thước lớn thì lúc đó ta cũng sẽcó một topology database rất lớn tương ứng khiến cho việc xử lý của router chậm đi.......Trong ospf định nghĩa một số vùng cơ bản sau: 1. Stub Area: đây là vùng sẽ không nhận những routing update từ bên ngoài (Type 5) nhưng vẫn nhận update từ những Area láng giềng (Type 3) 2. Stotaly stub Area: đây có thể coi là vùng cựu đoan nhất nó không nhật bất cứ routing update nào, và trong bảng routing của nó chỉ có một routing ra ngoai duy nhất là default route. vùng này thích hợp cho những site ở xa có ít network và cần sự giới hạn kết nối ra bên ngoài. 3. NSSA Stub Area: đây là vùng được sử dụng khi kết nối đên ISP hoặc khi có sự redistribute giữa các routing protocol khác nhau. vùng này sẽ nhận các route từ bên ngoài dưới dạng type 7 và sẽ chuyển đổi type 7 này thành type 5 để quảng bá vào các Area khác tại con NNSA ABR. 4. Backbone Area: đây chính là vùng Area 0 và nó connect tới tất cả các area khác còn lại, nếu một area nào đó muốn nối tới Area0 nhưng không nối trực tiếp được thì lúc đó ta phải tao virtual link cho Area này.Metric của OSPF là cost.Cost được tính dựa trên công thức 10 exp 8 / BW (đọc là: mười lũy thừa tám chia cho băngthông). Băng thông trong công thức trên là băng thông của interface hoặc băng thông đượcchỉ ra bởi lệnh bandwidth. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CCNA OSPFBài viết CCNA-OSPFTác giả: Đăng Quang Minh ̣Tài liệu tham khảo cho học viên CCNA của VnProOSPF dùng giải thuật SPF để tính tóan đường đi. Giải thuật này còn được gọi là giải thuậtDijkstra. Các routing protocol nhóm link state không broadcast tòan bộ thông tin về bảng địnhtuyến giống như RIP/IGRP và thay vào đó, OSPF sẽ dùng một quá trình để khám phá các lánggiềng (neighbor). Các láng giềng cũng có thể được định nghĩa tĩnh.Router láng giềng là các router khác, cũng chạy OSPF, có chung subnet với router hiện hành. Khicác router đã thiết lập quan hệ láng giềng với nhau, các router bắt đầu trao đổi các thông tin vềđồ hình (topology) của mạng. Giải thuật SPF sẽ chạy trên các database này để tính ra cácđường đi tốt nhất.Khi một interface được chỉ định chạy OSPF, các bước sau diễn ra:1. Xác định neighborsa. Bắt đầu ở Down state, router không trao đổi gì với ai.b. Sang Init state, router gửi hello packet để xác định neighbor. OSPF gửi packet Hello lần đầutiên và chờ nhận một gói Hello packet từ một OSPF router khác, chuẩn bị cho việc thiết lậpquan hệ : Two way hay Adjacency. Init state chỉ giúp router tìm các neighbor của nó thôi. Ở giaiđọan này, router chưa thiết lập adjacencyc. Two-way state, router nhận hello hình thành neighbors. Khi này các Router nhận ra neighbor,nhưng không thể share routing information cho nhau được. ; không có bầu chọn DR/BDR trongstate này. =>DR là router chính để phân phối cho các router còn lại.2. Hình thành Adjacencya. Vào Extart state: Gửi và nhận DBD (DataBase Description), từ đó chọn ra master/slave. Masterđược quyền gửi các DBD trước.b. Sang Exchange state: Master gửi DBD cho các slave, slave nhan DBD, so sánh với các thôngtin của nó, đồng thời gửi LSAck lại cho masterc. Loading state: Nếu một trong hai bên có thông tin đúng hơn, bên kia sẽ gửi yêu cầuLSRequest, bên này trả lại LSUpdate, bên kia nhận và trả lại LSAck. Trạng thái b, c lặp cho đénkhi chúng có cùng thông tind. Full state: Khi này, các router đã có database như nhau, chúng trở thành adjacency của nhau.Chỉ những Router là adjacency của nhau mới share routing information cho nhau- Trong serial link (point to point), các Router OSPF cũng tự bầu chọn DR/BDR, không nhấtthiết là trong multiaccessDR, BDR để làm gì?Khái niệm DR, BDR chỉ dùng khi interface của router nối vào broadcast-multiaccess segment.Để trao đổi được thông tin vói nhau, các router OSPF phải là các adjacent của nhau. Giả sửtrong segment có N router chạy OSPF và cùng thuộc một area. Nếu không có DR/BDR, cácrouter phải thiết lập quan hệ adjacency với nhau ==> có N*(N-1)/2 mối quan hệ. Và khi N*(N-1)/2 mqhệ này cùng gửi thông tin update thì ảnh hưởng đến performance của mạng là điềukhông tránh khỏi. Vì thế, DR sẽ đứng ra làm trung gian, nhận và phân phối các LSA từ cácrouter thành viên (cùng segment), sau đó phân phối đến các router còn lại. BDR chỉ là backup choDR. Thay vì có N*(N-1)/2 quan hệ, bạn chỉ có N-1 quan hệ vì các router chỉ tạo adjacency vớiDR thôi.Vậy nhưng ở mức neighbor, các router vẫn gửi các hello packet cho nhau (10s một lần)Trong ospf có sử dụng ba ID:* Router ID : Được gửi đi từ các router trong các gói tin hello.Nó có độ dài 32bit.No có giá trịbằng địa chỉ địa chỉ IP lớn nhất được sủ dụng trên router.Nếu trên router có giao diện loopbackđược cấu hình thì router ID bằng địa chỉ IP của giao diện loopback đó.Trong trường hợp cónhiều giao diện loopback thì nó lấy địa chỉ lớn nhất của giao diện loopback làm routerID.Router ID được sử dụng để phân biệt các router nằm trong cùng một autonmous system.* Process ID : là tham số cấu hình khi ta đánh lệnh router ospf process-id.*Area ID: là tham số để group một nhóm các router vào cùng một area.Các router này cùng chiasẻ hiểu biết về các đường học được trong miền OSPF.Việc chia thành nhiều area là để tiện việc quản lý đồng thời nó giúp ta giới hạn kích thước củatopology database, giả sử nếu ta có duy nhất một vùng với kích thước lớn thì lúc đó ta cũng sẽcó một topology database rất lớn tương ứng khiến cho việc xử lý của router chậm đi.......Trong ospf định nghĩa một số vùng cơ bản sau: 1. Stub Area: đây là vùng sẽ không nhận những routing update từ bên ngoài (Type 5) nhưng vẫn nhận update từ những Area láng giềng (Type 3) 2. Stotaly stub Area: đây có thể coi là vùng cựu đoan nhất nó không nhật bất cứ routing update nào, và trong bảng routing của nó chỉ có một routing ra ngoai duy nhất là default route. vùng này thích hợp cho những site ở xa có ít network và cần sự giới hạn kết nối ra bên ngoài. 3. NSSA Stub Area: đây là vùng được sử dụng khi kết nối đên ISP hoặc khi có sự redistribute giữa các routing protocol khác nhau. vùng này sẽ nhận các route từ bên ngoài dưới dạng type 7 và sẽ chuyển đổi type 7 này thành type 5 để quảng bá vào các Area khác tại con NNSA ABR. 4. Backbone Area: đây chính là vùng Area 0 và nó connect tới tất cả các area khác còn lại, nếu một area nào đó muốn nối tới Area0 nhưng không nối trực tiếp được thì lúc đó ta phải tao virtual link cho Area này.Metric của OSPF là cost.Cost được tính dựa trên công thức 10 exp 8 / BW (đọc là: mười lũy thừa tám chia cho băngthông). Băng thông trong công thức trên là băng thông của interface hoặc băng thông đượcchỉ ra bởi lệnh bandwidth. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu mpeg lý thuyết mạch điện tử viễn thông tự học viện thông lý thuyết viễn thôngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề cương chi tiết học phần Trí tuệ nhân tạo
12 trang 417 0 0 -
Đề cương chi tiết học phần Vi xử lý
12 trang 281 0 0 -
Đồ án: Kỹ thuật xử lý ảnh sử dụng biến đổi Wavelet
41 trang 214 0 0 -
79 trang 209 0 0
-
91 trang 183 0 0
-
32 trang 160 0 0
-
Tìm hiểu chương trình đào tạo ngành Điện tử - Viễn thông hệ đại học: Phần 2
174 trang 152 0 0 -
Đề cương chi tiết học phần Thực tập Kỹ thuật truyền hình
16 trang 152 0 0 -
Đồ án: Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của màn hình LCD monitor
80 trang 138 0 0 -
Đồ án: Thiết kế bộ điều khiển luật PID điều khiển động cơ DC
94 trang 133 0 0