Danh mục

Chẩn đoán và điều trị: Thâm nhiễm gần rìa giác mạc và viêm bờ mi do chủng staphylococcus

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 601.72 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu nhằm chẩn đoán và điều trị thâm nhiễm gần rìa giác mạc trên bệnh nhân viêm bờ mi trước do chủng Staphylococcus, nghiên cứu tiến hành mô tả lâm sàng 2 ca bệnh tại khoa Kết - Giác mạc, Bệnh viện Mắt Trung ương. Kết quả cho thấy thời gian bị bệnh trước khi đến khám 2 tháng - 4 tháng. Bệnh nhân đã sử dụng nhiều loại kháng sinh. Đến khám với tổn thương thâm nhiễm ở lớp nhu mô trước giác mạc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chẩn đoán và điều trị: Thâm nhiễm gần rìa giác mạc và viêm bờ mi do chủng staphylococcus DIỄN ĐÀN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ: THÂM NHIỄM GẦN RÌA GIÁC MẠC VÀ VIÊM BỜ MI DO CHỦNG STAPHYLOCOCCUS (Diagnosis and treatment: marginal corneal infiltrations and staphylococcus species blepharitis) Vũ Thị Tuệ Khanh*, Phạm Thu Lan** TÓM TẮT Mục tiêu: chẩn đoán và điều trị thâm nhiễm gần rìa giác mạc trên bệnh nhân viêm bờ mi trước do chủng Staphylococcus. Phương pháp: mô tả lâm sàng 2 ca bệnh tại khoa Kết - Giác mạc, Bệnh viện Mắt Trung ương. Kết quả: thời gian bị bệnh trước khi đến khám 2 tháng - 4 tháng. Bệnh nhân đã sử dụng nhiều loại kháng sinh. Đến khám với tổn thương thâm nhiễm ở lớp nhu mô trước giác mạc, vị trí gần rìa củng giác mạc, kích thước khoảng 1,5 mm, viêm bờ mi do chủng Staphylococcus. Sau 10 ngày đến 14 ngày điều trị và vệ sinh bờ mi, các triệu chứng cơ năng giảm và bệnh nhân thấy dễ chịu. Dấu hiệu lâm sàng mất hẳn sau 1 tháng điều trị. Kết luận: viêm bờ mi là bệnh thường gặp tại các phòng khám mắt. Tổn thương trên giác mạc do viêm bờ mi có hình thái điển hình. Bệnh nhân cần được khám một cách tỷ mỷ, có hệ thống và điều trị thích hợp. Viêm mi do tụ cầu là nhiễm trùng thường gặp gây nên viêm bờ mi trước, rối loạn bề mặt nhãn cầu, rối loạn sự bền vững của màng phim nước mắt và/hoặc tổn thương trên giác mạc. Các tổn thương do bệnh này gây nên thường mang tính chất mãn tính, tiến triển lúc giảm lúc tăng, thị lực có thể giảm nhiều hoặc ít. Nếu các tổn thương này không được giải quyết thì sẽ dẫn tới giảm thị lực trầm trọng. I. MÔ TẢ CÁC CA BỆNH 1. Bệnh nhân 1: nữ, 14 tuổi Bệnh nhân đến khám tại khoa Kết - Giác mạc sau 4 tháng điều trị bằng kháng sinh tra mắt dạng mỡ và nước như tobramycin, ofloxacin, ciprofloxacin. Các triệu chứng cơ năng như mắt đỏ, cộm mắt, nhìn mờ không đỡ trong quá trình trước khi đến bệnh viện. Khám mắt trái, trên sinh hiển vi thấy gần rìa giác mạc có 2 nốt thâm nhiễm nằm ở 1/3 lớp nhu mô trước, kích thước khoảng 1 - 1,5mm, nhuộm giác mạc bằng fluorescein âm tính. Từ phía rìa củng giác mạc có những nhánh mạch máu nông, nhỏ hướng về phía ổ thâm nhiễm. Các nốt thâm nhiễm xuất hiện ở vị trí từ 4 đến 8 giờ. Kết mạc rìa cương tụ nhẹ (ảnh 1, 2). 2 mắt biểu hiện viêm bờ mi, nhiều vảy khô bám ở da chân lông mi và lông mi (ảnh 3). Các test về phim nước mắt bình thường. Thị lực 2 mắt 5/10 qua kính lỗ 9/10 (cận thị). Chưa thấy tổn thương khác ở 2 mắt. Xét nghiệm vi sinh chất nạo bờ mi cho thấy Staphylococcus aureus *Khoa Kết - Giác mạc, Bệnh viện Mắt Trung ương **Khoa xét nghiệm vi sinh, Bệnh viện Mắt Trung ương 46 Nhãn khoa Việt Nam (Số 19 - 2010) DIỄN ĐÀN Ảnh 1: 2 nốt thâm nhiễm gần rìa giác mạc 2. Bệnh nhân 2: nữ, 24 tuổi Bệnh nhân đến khám tại khoa Kết - Giác mạc với các triệu chứng cơ năng mắt đỏ, cộm mắt, đôi khi nhìn mờ. Bệnh nhân đã được điều trị khoảng 2 tháng bằng nhiều loại thuốc kháng sinh tra mắt dạng mỡ, nước, nhưng không nhớ thuốc gì. Khám mắt trái trên sinh hiển vi thấy gần rìa giác mạc có vài nốt thâm nhiễm nằm ở ½ và 1/3 lớp nhu mô trước, kích thước không đều nhau khoảng 1 - 1,5 mm, nhuộm giác mạc bằng fluorescein âm tính, các nốt thâm nhiễm xuất hiện ở vị trí từ 4 đến 8 giờ. Từ phía rìa củng giác mạc có những nhánh mạch máu nông, nhỏ hướng về phía ổ thâm nhiễm. Kết mạc rìa cương tụ nhẹ (ảnh 4, 5). 2 mắt biểu hiện viêm tắc tuyến Meibomius ở bờ mi trên (ảnh 6). Các test về phim nước mắt bình thường. Thị lực 2 mắt 9/10. Chưa thấy tổn thương khác ở 2 mắt. Ảnh 2: Thâm nhiễm nằm ở 1/3 lớp nhu mô trước của giác mạc Ảnh 4: BN 2, thâm nhiễm gần rìa giác mạc Ảnh 3: Bệnh nhân 1, viêm bờ mi Bệnh nhân đã được điều trị tra mắt Vigamox x 4lần/ngày, Systane x 6lần/ngày, Maxitrol x 4lần/ngày, mỡ Oflovid 1% x 1lần/ngày/tối. Bệnh nhân được hướng dẫn vệ sinh mi mắt hàng ngày bằng nước sạch và sampoo Johnson & Johnson. Sau 2 tuần điều trị, thâm nhiễm ở rìa hết, liều tra mắt Vigamox và Maxitrol giảm và ngừng thuốc. Bệnh nhân sử dụng kéo dài Systane, mỡ Oflovid và vệ sinh bờ mi như hướng dẫn. Các triệu chứng cơ năng của bệnh nhân giảm sau 5 ngày dùng thuốc và hết sau 4 tuần điều trị. Thị lực ổn định trong suốt quá trình điều trị. Ảnh 5: BN2, thâm nhiễm nằm ở ½ lớp nhu mô trước của giác mạc Ảnh 6: BN2, viêm tắc tuyến Meibomius Nhãn khoa Việt Nam (Số 19 - 2010) 47 DIỄN ĐÀN Xét nghiệm vi sinh bệnh phẩm chất nạo bờ mi thấy chủng Staphylococcus. Bệnh nhân đã được điều trị tra mắt Vigamox x 4lần/ngày, Systane x 6lần/ngày, Maxitrol x 4lần/ngày, mỡ Oflovid 1% x 1 lần/ngày/tối. Bệnh nhân được hướng dẫn chườm nóng khô da mi và mat-xa da mi 3lần/ngày. Sau 2 tuần điều trị, thâm nhiễm ở rìa hết, liều tra mắt Vigamox và Maxitrol giảm và ngừng điều trị. Bệnh nhân sử dụng kéo dài Systane, mỡ Oflovid và chườm nóng, mat-xa như hướng dẫn. Các triệu chứng cơ năng của bệnh nhân giảm nhiều sau 10 ngày dùng thuốc và hết sau 5 tuần điều trị. Thị lực ổn định trong suốt quá trình điều trị. II. BÀN LUẬN Từ việc nghiên cứu bệnh cảnh lâm sàng của 2 bệnh nhân đã mô tả cho thấy, ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: