Tham khảo: Chi tử nhẹ thoảng có hình phổi màu đỏ là tượng của hỏa nên tả được hỏa trong Phế, dùng nó có 4 tác dụng: Thứ nhất là nhiệt bám vào Tâm kinh, hailà trừ được bứt rứt, ba là khử hư nhiệt ở thượng tiêu, bốn là trị phong (Trân Châu Nang). + Chi tử tả hỏa của tam tiêu và uất hỏa trong bỉ khối, thanh huyết trong vị quản, tính nó chạy quanh co khuất khúc, xuống dưới có thể giáng hỏa theo đường tiểu ra ngoài. Người đau tim hơi lâu không...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHI TỬ (Kỳ 4) CHI TỬ (Kỳ 4) Tham khảo: + Chi tử nhẹ thoảng có hình phổi màu đỏ là tượng của hỏa nên tả đượchỏa trong Phế, dùng nó có 4 tác dụng: Thứ nhất là nhiệt bám vào Tâm kinh, hailà trừ được bứt rứt, ba là khử hư nhiệt ở thượng tiêu, bốn là trị phong (TrânChâu Nang). + Chi tử tả hỏa của tam tiêu và uất hỏa trong bỉ khối, thanh huyết trongvị quản, tính nó chạy quanh co khuất khúc, xuống d ưới có thể giáng hỏa theođường tiểu ra ngoài. Người đau tim hơi lâu không nên uống ấm, uất hỏa ngượclên sườn, vì vậy các phương thuốc có dùng Chi tử làm thuốc dẫn nhiệt thì tà dễphục núp và bệnh dễ lui (Bản Thảo Diễn Nghĩa). + Sơn chi giải được độc của Ngọc chi hoa [Dương trịch trục] (BảnThảo Tập Chú). + Sơn chi tử giải được phong nhiệt độc, giải được nhiệt độc lúc thờidịch, 5 chứng vàng da, ngũ lâm, thông tiểu, tiêu khát, sáng mắt, trúng độc, sáttrùng độc (Dược Tính Bản Thảo). + Chi tử bẩm thụ được cái khí đắng mà rất lạnh, đắng lạnh thì tổn vịthương huyết. Hễ Tỳ Vị suy nhược thì cấm dùng. Huyết hư phát sốt cấm dùng.Tính nó có thể tả được hỏa hữu dư, Tâm Phế không có tà nhiệt kết ở tiểutrường thì không nên dùng. Lở loét vì khí huyết hư không thể thu liễm, khôngdùng (Bản Thảo Kinh Sơ). + Màu vàng của Chi tử còn được dân gian dùng làm màu nhuộm tronglúc nấu hoặc chế biến thức ăn, vì không độc (Trung Quốc D ược Học Đại TừĐiển). Phân biệt: (1) Cây Dành dành bắc (Gardenia tonkinensis Pitard): cây cao nhỡ 1-4m, rất nhẵn. Cành non dẹt, màu nâu đậm, sau màu xám, nhạt, tròn. Lá hìnhtrái xoan nhọn đầu và gốc, màu nâu đỏ và hơi bóng ở mặt trên, nhạt hơn ở mặtdưới cuống ngắn, lá kèm hình bầu dục, nhọn đầu, mặt trong có lông tơ trắng.Hoa nở tháng 5-6 quả chín từ tháng 8-11. Cây mọc phổ biến, thường trồng làmcảnh vì có hoa lớn, dẹp. Quả có thể dùng để nhuộm. (2) Cần phân biệt với cây Dành dành láng (G. philastrei Pit) có ở PhướcTuy, Nha Trang. Dành dành Ăng co (G, angkorensis Pitard), có ở Nha Trang,Hòn Tre. Dành dành Thái (G. sotepensis Hutc in Craib) có ở Đà Lạt. Dànhdành GODFROY (G. godlefroyana O, Ktze). (3) Ở Trung Quốc có cây Thủy chi tử (Gardenia radicans Thumb) l à câybụi thấp xanh quanh năm, thân có nhiều cành, mọc nghiêng như Chi tử, chỉkhác là hoa xếp chồng, thông thường thì không kết quả hay kết quả rất ít, hoaquả nhỏ hơn Chi tử. Lá hình nhọn, lộn ngược hay hình trứng đảo ngược, có 2loại lá to và lá nhỏ. Thường trồng ở công viên làm cảnh, quả không làm thuốc. (4) Cần phân biệt với quả Giun hay Sử quân tử (xem) là quả khô củacây Sử quân (Quisqualis indica L.) họ Combretaceae là vị thuốc dùng để tẩygiun có hình giáng hao hao giống quả Chi tử (loại nguyên). (5) Ngoài loài Chi tử nói trên, ở miền núi có một loài mọc hoang gọi làSơn chi tử, dáng cây nhỏ hơn, người ta cũng dùng làm thuốc. Tên gọi: Chi có nghĩa là chén đựng rượu, tử là hạt quả. Vì quả như cáichén uống rượu nên gọi là Chi tử (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).