Chiêm Thành là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: Campanagara) trong sử sách Trung Quốc từ 877 đến 1693[1]. Trước 859 Trung Quốc gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu thế kỷ thứ 11, Chiêm Thành bao gồm 5 tiểu vương quốc là: Indrapura (vùng Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay), Amaravati (vùng Quảng Nam ngày nay), Vijaya (vùng Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), Kauthara (vùng Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay) và Panduranga (vùng Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay)....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chiêm Thành Chiêm Thành Chiêm Thành là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: Campanagara)trong sử sách Trung Quốc từ 877 đến 1693[1]. Trước 859 Trung Quốc gọi vương quốc nàylà Hoàn Vương. Đầu thế kỷ thứ 11, Chiêm Thành bao gồm 5 tiểu vương quốc là:Indrapura (vùng Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay), Amaravati (vùng QuảngNam ngày nay), Vijaya (vùng Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), Kauthara (vùng PhúYên, Khánh Hòa ngày nay) và Panduranga (vùng Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay). Các vương triều Chiêm Thành Từ năm 875, sử Trung Quốc gọi Chăm pa là Chiêm Thành Quốc. Riêng, vùng PhanRang (Panduranga) ngày nay được gọi là Tân Đồng Long. Vương triều thứ sáu (875-991) Indravarman II. Kinh đô chính là Đồng Dương - Quảng Nam ngày nay. Thời gian của triều đại này là từ 875 - 889. Jaya Sinhavarman. Thời gian của triều đại này là từ 898 - 903. Ông là cháu gọi Indravarman II là cậu. Jaya Caktivarman. Bhadravarman II(vào khoảng những năm 908 đến năm 910). Indravarman III. Vào năm 918, Indravarman III cho đúc tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng dựng tại Tháp Bà, bức tượng này bị quân Chân Lạp cướp vào khoảng năm 945 - 946. Năm 965, Jaya Indravarman I cho dựng lại tượng nữ thần Bhagavati bằng đá ở Kauthara. Paramesvaravarman I (Ba Mỹ Thuế hay Tốt Lợi Đà Bàn Ấn Đồ hoặc Ba Mĩ Thế Hạt Ấn Bồ). Năm 982, vì bắt giữ sứ giả của Lê Đại Hànhnên Lê Đại Hành đánh Chiêm Thành, chém Ba Mỹ Thuế tại trận, phá hủy thành trì tông miếu. Indravarman IV. (Ngô Nhựt Hoan) lên ngôi năm 982 và trốn vào PhanRang và kết thúc trị vì vào năm 986. Lưu Kế Tông là người Việt chiếm ngôi vua sau khi Indravarman IV trốnvào Phan Rang và đến năm 986 chính thức lên ngôi. Chết năm 988. Jaya Indravarman I. Thời gian của triều đại này là từ 960 - 965. Vương triều thứ bảy (991-1044) Sri Harivarman II. Băng Vương La Duệ lên ngôi năm 988, lấy Vijaya - PhậtThệ (Bình Định) làm kinh đô chính. Lê Đại Hành đánh châu Địa Lý ngay sau khiHarivarman II lên ngôi. Năm 992, Lê Đại Hành sai mở con đường bộ đầu tiên khaithông với Chiêm Thành ở vùng biển Hà Tĩnh ngày nay. Sau đó Cu Thi Lợi lên ngôi vàonăm 991 và trị vì cho đến năm 997. Yan Pu Ku Vijaya (Dương Phô Củ). Cho dời đô về Vijaya(Đồ Bàn, BìnhĐịnh). Trị vì từ năm 997 đến năm 1007. Sri. Bi Trà (Xà Lời) lên ngôi. Harivarman III Paramecvaravarman II(phiên âm là Thi Nặc Bài Ma Diệp) tồn tại khoảngtrước và sau năm 1021. Vikrantvarman IV. Jaya Sinhavarman II(phiên âm chữ Hán là Hình Bốc Tộc Li Trị Tinh BaPhật). Trị vì từ 1041 đến năm 1044. Vua Lý Thái Tông đã đánh thành Phật Thệ, chémđược Sạ Đẫu, bắt các vợ và cung nữ của Sạ Đẩu, trong đó có nàng Mỵ Ê. Vương triều thứ tám (1044-1074) Jaya Paramecvaravavarman I. Ứng Ni lên ngôi vào năm 1044, kết thúc trị vìnăm 1060.Ông đàn áp sự chống đối của dân Panduragan. Bhadravarman III, làm vua khoảng 2 năm 1060 đến 1061. Rudravarman III. Chế Củ (Dương Bộc Thi Lợi Luật Đà Bàn Ma Đề Bà) lên ngôi vào năm 1061. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành. Chế Củ dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh.Năm 1074 đưa vợ con và 3000 lính sang cư trú ở Đại Việt. Vương triều thứ chín (1074-1139) Harivarman IV. Nhà vua bắt đầu trị vì vào năm 1074, đánh phá biên giới Đại Việt, đánh Chân Lạp đến Cambhupura, đốt phá nhiều đền điện của Chân Lạp. Năm 1075, Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành nhưng không thu được kết quả. Harivarman IV dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu và cho xây nhiều đền tại Mỹ Sơn. Jaya Indravarman II(lần thứ nhất) từ năm 1080 đến 1081. Ông bị chú là Paramabhodistava truất quyền. Paramabhodistava. Bắt đầu vào năm 1081, bị giết năm 1086 nên Jaya Indravarman II lên ngôi lần 2. Jaya Indravarman II(lần thứ 2). Chế Ma Na bắt đầu trị vì năm 1086. năm 1104, Chế Ma Na đánh ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, nhưng bị Lý Thường Kiệt đánh bại. Harivarman V (1114-1129)là cháu gọi Jaya Indravarman II là chú. Vương triều thứ mười (1139-1145) Jaya Indravarman III (1139-1145). Năm 1145, vua Chân Lạp là Suryavarman IIđánh chiếm Vijaya, Jaya Indravarman III mất tích và triều đại này kết thúc. Vương triều thứ mười một (1145-1318) Rudravarman IV. Kinh đô chính là Panduranga. Kết thúc vào năm 1145. Jaya Harivarman I (Chế Bì La Bút). Ông là hoàng tử Civanandana,con vua Rudravarman IV Jaya Harivarman II. Ông là con vua Jaya Harivarman I. Làm vua khoảng 4 năm thì bị cướp ngôi. Jaya Harivarman IV (1167-1190). Bị vua Cao Miên bắt trong 1 cuộc hành quân vào Chiê ...