Một trong những mối quan tâm lớn nhất hiện nay của những NĐT còn đang "bám sàn" đối với TTCK Việt Nam chúng ta là làm sao vẫn kiếm tiền và tồn tại qua khủng hoảng. Trong bài viết này, người viết không dám đưa ra cái gọi là lời khuyên, chỉ mong muốn chia sẻ thông tin và suy nghĩ của mình về những chiến lược đầu tư trong khủng hoảng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chiến lược đầu tư trong khủng hoảng
Chiến lược đầu tư trong khủng hoảng
Một trong những mối quan tâm lớn nhất hiện nay của những NĐT còn
đang bám sàn đối với TTCK Việt Nam chúng ta là làm sao vẫn kiếm tiền
và tồn tại qua khủng hoảng.
Trong bài viết này, người viết không dám đưa ra cái gọi là lời khuyên, chỉ mong
muốn chia sẻ thông tin và suy nghĩ của mình về những chiến lược đầu tư trong
khủng hoảng.
Phân tích kỹ thuật: chỉ số nào nên dùng trong khủng hoảng?
Không có một nguyên tắc lý thuyết hay tác nghiệp cụ thể nào chỉ ra là chỉ số kỹ
thuật nào nên được dùng trong khủng hoảng cả, nhưng chúng ta có thể sử dụng
việc kiểm định lại hiệu quả của các công cụ phân tích kỹ thuật trong khủng hoảng.
Trong Tạp chí phân tích kỹ thuật IFTA Journal mới xuất bản gần đây, Fred K. H.
Tam đã trình bày kết quả kiểm định lại các chiến lược dựa trên 13 chỉ số kỹ thuật
thông dụng và so sánh với chiến lược mua và giữ (chiến lược căn bản của giới
đầu tư giá trị) trong thời kỳ diễn ra khủng hoảng châu Á (7/1997 - 9/1998) và thời
kỳ bong bóng dotcom (1999 - 2000).
Tác giả này đã kiểm định kết quả trên cho 38 cổ phiếu của Malaysia, 8 chỉ số của
thị trường châu Á là KLCI (Malaysia), KCI (Hàn Quốc), SET (Thái Lan), STII
(Singapore), TWI (Đài Loan), JKSE (Indonesia), Nikkei 225 (Nhật Bản) và HSI
(Hồng Kông). Kết quả cho thấy, hầu hết các chiến lược dựa trên phân tích kỹ thuật
đánh bại chiến lược mua và giữ.
Kết quả kiểm định của Fred K. H. Tam sử dụng sự hỗ trợ của phần mềm
Metastock và một số công cụ thống kê cơ bản đã xếp hạng hiệu quả các chiến
lược đơn giản dựa trên chỉ số phân tích kỹ thuật và hệ số Sharpe (thường dùng để
đánh giá hiệu quả danh mục đầu tư).
13 chỉ số và công cụ phân tích kỹ thuật được kiểm định là: (1) quy tắc cắt nhau
của cặp trung bình di động đơn giản 1-30 (1-30 SMA); (2) quy tắc cắt nhau của
cặp trung bình di động đơn giản 5-20 (5-20 SMA); (3) quy tắc cắt nhau của cặp
trung bình di động mũ 3-7 (3-7 EMA); (4) chỉ số RSI; (5) chỉ số Momentum; (6)
chỉ số Stochastic; (7) chỉ số MACD và hệ bứt phá khỏi biên độ (channel break out
system - CBO), gồm (8) CBO 20-20, (9) CBO 20-10, (10) CBO 20-5, (11) CBO 10-
5, (12) CBO 15-5 và cuối cùng là (13) chỉ số biến động theo xu thế (directional
movement index - DMI). Kết quả này có thể được tóm tắt như sau (xem bảng).
Có thể thấy, các chiến lược tưởng là xưa cũ và cơ bản như 20-5 SMA và CBO 20-5
vẫn tỏ ra khá ưu việt so với các chỉ số máy tính hiện đại hơn. Ngoài ra, các chỉ số
mang tính chỉ báo nhanh nhưng đánh đổi lại với rủi ro đưa ra chỉ báo sai như
Stochastic, hay CBO 10-5 có tỷ suất sinh lợi không mấy ổn định. Cuối cùng, chỉ số
thông dụng MACD lại không mấy hiệu quả.
Điều này không có gì lạ, vì phương thức giao dịch đơn giản chỉ dựa trên MACD
thường không mang lại tỷ suất sinh lợi cao, nhưng người viết cho rằng, nếu dùng
chỉ số này để khẳng định mẫu hình hay đánh giá xu thế thì vẫn có thể kết hợp với
chỉ số khác.
Tóm lại, kết quả này có thể có một số gợi ý cho các chuyên gia phân tích kỹ thuật
của Việt Nam. Lưu ý rằng, đây là kiểm định trên thị trường nước ngoài. Sẽ là rất
tốt nếu có một công bố về một hệ kiểm định tương tự cho các chỉ số đối với thị
trường Việt Nam.
Có phải Buffett đã lỗi thời?
Gần đây có một số ý kiến cho rằng, đầu tư lướt sóng (mà phân tích kỹ thuật có hỗ
trợ đáng kể cho hoạt động lướt sóng) sẽ lên ngôi và trường phái đầu tư giá trị
của Buffett đã lỗi thời. Phải chăng là như vậy?
Thoạt nhìn vào bảng kết quả, ta dễ dàng cho rằng: chứ còn gì nữa, trong khủng
hoảng thì mua và giữ rõ ràng là lỗ lớn, trong khi kinh doanh ngắn hạn thì ít lỗ
hơn, thậm chí còn lời. Nhưng người viết không nghĩ vấn đề hoàn toàn là như vậy.
Thật ra, bảng kết quả đã có ngụ ý sự khác biệt. Thứ nhất, tại sao cũng trong giai
đoạn khủng hoảng châu Á, sử dụng công cụ phân tích kỹ thuật trên 38 cổ phiếu
lựa chọn bất kỳ của Malaysia thì đều lỗ, mà xét trên 8 chỉ số của thị trường châu Á
thì có lời. Câu trả lời là: trong các chỉ số chứng khoán, hàm ý là NĐT sở hữu một
danh mục thị trường, trong đó có nhiều cổ phiếu tốt, ít giảm giá và có tỷ suất sinh
lợi lớn.
Còn 38 chứng khoán lựa chọn bất kỳ của Malaysia thì phần lớn là chứng khoán
biểu hiện xấu (bằng chứng là tỷ suất sinh lợi mua và giữ nhóm 38 chứng khoán
này tệ hơn khá nhiều so với tỷ suất sinh lợi mua và giữ đối với 8 chỉ số). Ngoài ra,
còn là do mức độ tác động của khủng hoảng đối với từng thị trường khác nhau
nên danh mục 8 chỉ số này tốt hơn danh mục 38 chứng khoán của
Malaysia.referrelative=t path=m@4@5l@4@11@9@11@9@5xe filled=f
stroked=f>
[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/NGUYEN%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtmlclip1/0
1/clip_image001.gif[/IMG] >
[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/NGUYEN%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtmlclip1/0
1/clip_image001.gif[/IMG]>
Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là nếu NĐT chọn được cổ phiếu tốt mà ôm luôn
theo đúng trường phái của Buffett thì chưa chắc chịu thua trường phái mua đi bán
lại. Chính kết quả kiểm định tưởng là ủng hộ cho trường phái mua bán liên tục
trên đã hàm ý là nếu lựa chọn đúng cổ phiếu để giữ thì cũng không quá tệ.
Điểm thứ hai, nghiên cứu trên đã đơn giản hóa vấn đề về chi phí giao dịch và
thanh khoản của thị trường trong khủng hoảng. Nghiên cứu này đưa ra các chi phí
giao dịch cố định trên các thị trường và điều chỉnh cho tỷ suất lợi nhuận.
Trong khủng hoảng, tình hình không đơn giản là vậy. Thị trường có thể mất thanh
khoản tạm thời đột ngột. Một chiến lược mua đi bán lại thường xuyên luôn gặp trở
ngại lớn trong trường hợp thị trường mất thanh khoản.
Khi đó, dù các chỉ số kỹ thuật kêu bán ra, đóng vị thế, thì không biết có chạy kịp
hay không. Do đó, các con số trên chỉ có ý nghĩa nếu thị trường không đồng loạt
mất thanh khoản. Đây là rủi ro lớn nhất của chiến lược mua đi bán lại thường
xuyên.
Điểm thứ ba, quan điểm lướt sóng lên ngôi giả định rằng, người ta có đủ điều
kiện để lướt sóng. Đó là giả định NĐT có đủ thời gian, sức khỏe, thông tin, chiến
lược lướt tốt và đủ nhanh nhạy để lướt.
Chẳng lẽ người không quen lướt bây giờ vì nhậ ...