Danh mục

Chiến lược Tài chính đến năm 2020: Tầm nhìn và định hướng

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 268.79 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chiến lược Tài chính đến năm 2020: Tầm nhìn và định hướng Tài chính Việt Nam trong thế giới đa chiều Sau hơn 20 năm đổi mới, trong bối cảnh kinh tế tài chính thế giới có nhiều biến động, song kiên trì với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, kiên trì với con đường đổi mới, mở cửa hội nhập, tiềm lực kinh tế của Việt Nam đã và đang không ngừng được nâng cao....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chiến lược Tài chính đến năm 2020: Tầm nhìn và định hướng Chiến lược Tài chính đến năm 2020: Tầm nhìn và định hướng Tài chính Việt Nam trong thế giới đa chiều Sau hơn 20 năm đổi mới, trong bối cảnh kinh tế tài chính thế giới có nhiều biến động, song kiên trì với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, kiên trì với con đường đổi mới, mở cửa hội nhập, tiềm lực kinh tế của Việt Nam đã và đang không ngừng được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1990- 2010 đạt 7,38% – mức cao của khu vực và thế giới; GDP bình quân đầu người tăng nhanh từ mức 123 USD/người năm 1991 lên mức 1200 USD năm 2010; về cơ bản nước ta đã bước vào hàng ngũ những nước thu nhập trung bình. Thể chế kinh tế thị trường từng bước được hình thành và phát triển theo hướng ngày càng gắn kết với thị trường thế giới, tạo điều kiện thu hút ngày càng nhiều và sử dụng ngày càng hiệu quả các dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, tiềm lực tài chính quốc gia cũng không ngừng được mở rộng và tăng cường ở cả ba cấp độ tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư. Nhờ đó, an ninh tài chính quốc gia được đảm bảo, cân đối ngân sách tích cực, dư nợ Chính phủ và quốc gia được duy trì ở mức an toàn hợp lý, tạo nền tảng đưa Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng và ứng phó ngày càng linh hoạt với những biến động của kinh tế tài chính thế giới, đồng thời vững bước trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế tài chính thế giới vô cùng phức tạp với những biến động liên tục, đa chiều, nền tài chính Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn thực hiện chiến lược tài chính 2001-2010 còn bộc lộ một số điểm yếu như: (i) tính ổn định, bền vững trong huy động các nguồn lực chưa cao; (ii) hiệu quả phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn chế, tình trạng lãng phí, kém hiệu quả chậm được khắc phục; (iii) việc đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công tuy có bước phát triển tích cực song chưa đạt yêu cầu đề ra, thiếu sự phối hợp giữa Nhà nước và tư nhân trong cung ứng dịch vụ công, làm gia tăng gánh nặng ngân sách; (iv) hệ thống thanh tra, giám sát tài chính tuy đã có tiến bộ song sự kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong giám sát tài chính ở một số khâu còn yếu nên ảnh hưởng không nhỏ tới sự ổn định, bền vững của toàn hệ thống; (v) công tác cải cách hành chính tuy đã có những bước tiến lớn song trong một số khâu còn mang tính hình thức, thiếu đột phá và chưa theo kịp với thực tiễn phát sinh trong điều hành kinh tế- xã hội. Những yếu kém tồn tại trên, một mặt có những lý do khách quan, như nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi với trình độ phát triển kinh tế – xã hội tương đối hạn chế trong khi kinh tế trong nước và thế giới biến động mạnh, buộc phải có những điều chỉnh thường xuyên về cơ chế và chính sách, điều chỉnh các quyết định đầu tư và cơ cấu đầu tư, ảnh hưởng tới tính ổn định của hệ thống thể chế, tính hệ thống trong định hướng, phân bổ nguồn lực và chi phí đầu tư. Mặt khác, cũng một phần xuất phát từ các lý do chủ quan như: Tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược tài chính giai đoạn 2001-2010 ở trong một số khâu còn chưa đồng bộ và còn thiếu kiên quyết; Cải cách trong một vài lĩnh vực còn chậm đổi mới về tư tưởng, còn thiếu các bước cải cách đột phá; Còn có một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức tài chính chưa thích ứng kịp thời với những đổi mới về cơ chế, chính sách. Trong những thập niên tới, bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh, phức tạp và khó lường, hoà bình hợp tác tiếp tục là xu thế lớn. Xu hướng toàn cầu hoá sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ cả về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức. Các chuẩn mực quốc tế, nguyên tắc và luật chơi của các định chế quốc tế lớn sẽ trở thành nền tảng chi phối sự vận động và phát triển của nền kinh tế thế giới. Cùng với quá trình toàn cầu hoá, cạnh tranh giữa các quốc gia về vốn, nguồn nhân lực và công nghệ cũng sẽ ngày càng gay gắt hơn. Sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia trên thế giới ở phạm vi khu vực và toàn cầu trong hoạt động tài chính, thương mại và đầu tư ngày càng gia tăng. Cùng với tự do hoá đầu tư và thương mại sẽ là quá trình quốc tế hoá hệ thống tài chính- tiền tệ toàn cầu. Hệ thống chính sách của các nước sẽ hướng tới việc hồi quy trong một hành lang chung, đồng thời toàn cầu hoá cũng sẽ làm giảm tính độc lập trong việc thực hiện chính sách kinh tế nói chung và chính sách tài chính nói riêng của mỗi nước. Bên cạnh đó, thế giới đang có những bước chuyển to lớn, sâu sắc sang nền kinh tế tri thức, do đó, con người và tri thức đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Sau khủng hoảng tài chính- kinh tế toàn cầu, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường sẽ được định vị lại theo hướng coi trọng vai trò của Nhà nước trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện chức năng phát triển. Bảo hộ có xu hướng gia tăng. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế điều tiết tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học và công nghệ, sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Thế giới cũng sẽ bước vào một giai đoạn mới với một trật tự kinh tế mới công bằng hơn. Cấu trúc kinh tế thế giới sẽ chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc, Nga và Ấn Độ. Đứng trong một thế giới toàn cầu hoá với những biến động và tác động đa chiều ngoài ngoài ý muốn chủ quan, Việt Nam nên chọn cách ứng xử nào? Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ra sao? Sách lược tài chính thế nào để có thể đưa đất nước lớn mạnh trong hội nhập kinh tế- tài chính quốc tế? Đó là những câu hỏi lớn đang đặt ra. Có thể nói, trong thập niên tới, Việt Nam không còn con đường lựa chọn nào khác là phải lựa chọn Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với trọng tâm là tiếp tục đổi mới, tiếp tục hội nhập để đưa đất ...

Tài liệu được xem nhiều: