Danh mục

CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN.

Số trang: 16      Loại file: pdf      Dung lượng: 593.21 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Phát triển công nghiệp là một bộ phận không thể thiếu của chiến lược tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các nước đều theo đuổi một loại chính sách công nghiệp nào đó, mặc dù mục tiêu và cách tiếp cận của họ có thể khác hẳn nhau, và có thể thay đổi theo thời gian.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN. CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, và WTO Niên khóa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước đang phát triển CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Mari Pangestu Phát triển công nghiệp là một bộ phận không thể thiếu của chiến lược tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các nước đều theo đuổi một loại chính sách công nghiệp nào đó, mặc dù mục tiêu và cách tiếp cận của họ có thể khác hẳn nhau, và có thể thay đổi theo thời gian. Với môi trường trong nước và toàn cầu đang thay đổi hiện nay, các nước đang phát triển cần đánh giá lại các lựa chọn đang mở ra cho họ để có thể thực hiện một chính sách công nghiệp hóa hiệu quả và phù hợp với WTO. Mục tiêu và phạm vi của chính sách công nghiệp Sách vở kinh tế và các bài học từ việc thi hành chính sách công nghiệp nhấn mạnh rằng một chính sách hoặc chiến lược công nghiệp hiệu quả cần phải có những mục tiêu, lý do, và phạm vi được xác định rõ ràng. Ngân hàng Thế giới đã đưa ra một định nghĩa có thể chấp nhận được của chính sách công nghiệp là “các nỗ lực của chính phủ nhằm thay đổi cơ cấu công nghiệp để thúc đẩy tăng trưởng dựa trên năng suất” (World Bank 1992)1. Định nghĩa này là hữu ích vì nó tập trung vào mục tiêu tăng trưởng năng suất yếu tố trong toàn bộ nền kinh tế chứ không phải chỉ đơn giản thay đổi cơ cấu sản phẩm đầu ra của các ngành sản xuất hay chăm lo đến một vài khu vực nhất định. Chính sách công nghiệp không chỉ giới hạn ở khu vực công nghiệp chế tạo, mà còn bao gồm cả hai khu vực làm tăng giá trị cho hàng công nghiệp chế tạo là các ngành chế biến nông khoáng sản và dịch vụ. Trong thực tế, chính sách công nghiệp thường có nhiều mục tiêu, bao gồm công ăn việc làm trong ngắn hạn, gia tăng sản lượng, phân phối các hoạt động kinh tế công bằng hơn giữa các vùng, và nâng cao năng lực công nghệ. Thường còn có cả các mục tiêu phi kinh tế, như niềm tự hào và uy tín của dân tộc, nhu cầu thúc đẩy các ngành công nghiệp nội địa được coi là “chiến lược”. Những mục tiêu đó còn lộn xộn rối rắm đến mức nhiều nước đang phát triển lo lắng về quyền sở hữu của người nước ngoài và và tác động có thể có của nó đến năng lực trong nước.2 Điều quan trọng là phải theo đuổi một chính sách công nghiệp có các mục tiêu giới hạn và được xác định rõ ràng, bởi vì có thể không có đủ các công cụ chính sách để đáp ứng quá nhiều mục tiêu khác nhau. Hơn nữa, các mục tiêu khác nhau có thể không phù hợp với nhau. Biện minh cho chính sách công nghiệp Lập luận kinh tế ủng hộ cho sự can thiệp của chính phủ nhằm nâng cao năng suất lao động trong dài hạn được xây dựng dựa trên nhu cầu điều chỉnh các thất bại thị trường (được cho là đang tồn tại) xuất phát từ các ngoại tác, sự thiếu vắng của các thị trường, hoặc các thất bại khác, trong khi có tính đến các tác động phụ có thể có đến các ngành khác trong nền kinh tế. Lập luận kinh tế truyền thống ủng hộ việc chính phủ trợ giúp cho một số ngành nào đó là để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ.3 Bảo hộ chống hàng nhập khẩu dưới dạng thuế quan, hoặc trợ cấp theo sản lượng của doanh nghiệp (hai công cụ có tác động tương đương đối với sản lượng của một ngành cụ thể nào đó) được biện minh trên cơ sở ngoại tác động (dynamic externality), ví dụ như học hỏi qua công việc (learning by doing) hoặc đào tạo tại chỗ (on-the-job training) là những điều giúp làm Bernard Hoekman et al. 1 Bin dịch: Hoàng Nhị Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 17: Chính sách công nghiệp và các nước đang phát triển giảm chi phí. Theo lập luận này, chỉ nên trợ giúp những quá trình học hỏi diễn ra bên ngoài doanh nghiệp, bởi vì doanh nghiệp không thể chiếm được đặc quyền hoặc lợi nhuận từ việc đào tạo này nên sẽ không đầu tư cho nó. Có những điều kiện quan trọng giới hạn lập luận về ngành công nghiệp non trẻ. Thứ nhất, mức độ giảm chi phí trong tương lai cần phải đủ để bù đắp chi phí cao hơn trong giai đoạn được hỗ trợ. Thứ hai, không nên hỗ trợ bao trùm cho toàn bộ các doanh nghiệp trong một ngành; sự tồn tại của ngoại tác và việc hỗ trợ cần phải được gắn với kết quả hoạt động của người nhận hỗ trợ (ví dụ, hiệu quả phải cao hơn hoặc chi phí phải giảm đi), và khoản hỗ trợ phải giảm dần theo thời gian. Thứ ba, công cụ thích hợp để tạo ra ngoại tác tích cực từ việc mở rộng công nghiệp nội địa có thể không phải là thuế quan hay trợ cấp theo sản lượng. Một chính sách thích hợp hơn là: trợ cấp theo quá trình, theo việc làm, hoặc sản phẩm mà có thể giúp tạo ra kiến thức hay học hỏi. Tính thích hợp của các công cụ chính sách tuân theo một chủ đề chung hơn trong lý thuyết về sự can thiệp của chính phủ (xem Bhagwati 1971; Corden 1974). Mỗi ngoại tác hoặc thất bại thị trường đòi hỏi phải có loại trợ cấp thuế dựa trên biến số đã tạo ra ngoại tác hoặc thất bại thị trường đó, và tỉ lệ trợ cấp thuế phải là tỉ lệ giúp tạo được hiệu quả tối ưu. Bất kỳ một trợ cấp thuế nào khác với trợ cấp thuế tối ưu sẽ tạo ra điều mà Corden (1974) gọi là những tác động phụ, những tác động sẽ áp đặt chi phí không mong muốn ở một nơi khác trong nền kinh tế. Cũng cần lưu ý đến tác động của sự can thiệp vào một ngành đến toàn bộ nền kinh tế. Một cách để làm điều này là chú ý đến tỉ lệ bả ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: