Chính sách đổi mới của Việt Nam: Tác động tới cộng đồng vùng cao và quản lý rừng bền vững
Số trang: 22
Loại file: pdf
Dung lượng: 358.87 KB
Lượt xem: 22
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài báo "Chính sách đổi mới của Việt Nam: Tác động tới cộng đồng vùng cao và quản lý rừng bền vững" được xem như một nghiên cứu điểm, nhằm tạo cơ sở cho việc điều chỉnh những tác động vào hệ thống kinh tế - xã hội và tài nguyên rừng phù hợp với hệ sinh thái nhân văn ở vùng cao Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chính sách đổi mới của Việt Nam: Tác động tới cộng đồng vùng cao và quản lý rừng bền vững CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM: TÁC ĐỘNG TỚI CỘNG ĐỒNG VÙNG CAO VÀ QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG Trần Thị Thu Hà Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Phạm Văn Điển Đại học Lâm nghiệp Việt Nam Đặng Tùng Hoa Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Thị Thu Huyền Văn phòng UNDP Việt Nam Trần Đức Viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam Tóm tắt Chính sách Đổi mới của Việt Nam ra đời từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã tạo ra sự chuyển dịch từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chuyển quyền sử dụng đất từ Nhà nước sang các chủ thể sử dụng đất. Một trong những mục tiêu chính của chính sách Đổi mới cho vùng cao là giảm mất rừng, tăng cường quản lý rừng và đất rừng, nhằm cải thiện sinh kế cho người dân. Chính sách này nhằm sử dụng tối ưu rừng và đất rừng bằng cách áp dụng các biện pháp canh tác phù hợp, cũng như chiến lược kết hợp các mục tiêu bảo tồn và phát triển ở vùng cao, với hy vọng việc ban hành chính sách Đổi mới sẽ làm tăng thu nhập cho người dân, giảm mất rừng và quản lý khu vực đất dốc bền vững. Thông qua dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn các bên có liên quan, các nhóm mục tiêu và các hộ gia đình tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu đã chỉ ra rằng, quá trình thực hiện chính sách Đổi mới cho vùng cao vẫn chưa đạt được đầy đủ các mục tiêu ban đầu đặt ra, là cải thiện sinh kế cho người dân và quản lý rừng bền vững. Sinh kế của nhóm người dân trên chuẩn nghèo được cải thiện, trong khi các sinh kế cho nhóm nghèo vẫn còn hạn chế. Tình trạng thiếu đất canh tác cũng như trình độ sản xuất các loại cây trồng mới còn hạn chế là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ đói nghèo còn cao. Tính công bằng chưa cao trong giao quyền sử dụng đất, cũng như cơ hội tiếp cận tài nguyên, đã làm gia tăng khoảng cách giàu - nghèo. 136 Hơn nữa, các chính sách Đổi mới cũng chưa phát huy các tập quán, tri thức bản địa về quản trị tài nguyên rừng của cộng đồng dân tộc. Tổ chức thể chế còn yếu, hiệu quả kém, cũng như thiếu minh bạch trong hệ thống quản lý vẫn là những rào cản, khiến cho chính sách Đổi mới ở vùng cao chưa thành công như mong đợi. Với những kết quả đã đạt được, bài báo được xem như một nghiên cứu điểm, nhằm tạo cơ sở cho việc điều chỉnh những tác động vào hệ thống kinh tế - xã hội và tài nguyên rừng phù hợp với hệ sinh thái nhân văn ở vùng cao Việt Nam. Từ khóa: Chính sách Đổi mới; Cộng đồng vùng cao; Quản lý rừng; Hệ sinh thái nhân văn. GIỚI THIỆU Các chính sách của Chính phủ Việt Nam, được gọi chung là Đổi mới, đã được áp dụng từ cuối những năm 1980. Những chính sách này cho phép quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp, sang nền kinh tế thị trường và chuyển quyền sử dụng đất từ Nhà nước quản lý cho người sử dụng. Một trong những mục tiêu chính của Đổi mới ở vùng cao của Việt Nam là giảm phá rừng và tăng cường tính bền vững của rừng và quản lý đất lâm nghiệp. Chính sách này là kết quả của sự kết hợp hai chiều từ trên xuống và dưới lên (Fforde và Goldstone, 1995; Kerkvliet, 2005). Từ dưới lên đã xuất hiện sự phá rào, khi người dân nông thôn đã không đồng thuận kế hoạch tập trung bao cấp. Thực tế với kinh tế tập trung bao cấp đã dẫn đến tình trạng sản lượng nông nghiệp giảm trên đất thuộc hợp tác xã và Nhà nước đã đưa ra hành động phù hợp để ứng phó với khủng hoảng lương thực ngày càng tăng trong thời kỳ trước Đổi mới. Năm 1988, khoán 10 của Bộ Chính trị đã được ban hành, thay đổi đất nông nghiệp từ sở hữu tập thể sang sở hữu hộ gia đình (GOV, 1988). Điều này cho phép quyền sở hữu các hộ gia đình, cá nhân đối với đất sản xuất nông nghiệp và những lợi ích đã nhanh chóng xuất hiện. Đến năm 1992, Việt Nam từ một nước nhập khẩu gạo đã trở thành một trong các nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới (World Bank, 1994). Từ những thành tựu cải cách nông nghiệp ở các vùng đồng bằng, Chính phủ tiếp tục thực hiện những cải cách khác trong tiến trình Đổi mới, trong đó có cải cách ruộng đất, cải cách kinh tế - xã hội, cải cách lâm nghiệp, v.v... Kể từ đầu những năm 1990, các chính sách Đổi mới đã được triển khai tại các khu vực vùng cao, với mục đích cải thiện sinh kế 137 địa phương và quản lý rừng và đất lâm nghiệp. Các chính sách, bao gồm chuyển quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ Nhà nước đến các hộ gia đình và các thành phần kinh tế khác thông qua Luật Đất đai năm 1993, đã được thực hiện (NAoV, 1993). Đồng thời, Chính phủ đưa ra các cải cách kinh tế và đất đai. Các chính sách đã tìm cách để đạt được sự tối ưu trong sử dụng rừng và đất lâm nghiệp thông qua việc áp dụng các hệ thống canh tác thích hợp và chiến lược kết hợp các mục tiêu bảo tồn và phát triển ở khu vực miền núi. Các chính sách này hy vọng rằng, sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp thích hợp sẽ làm tăng thu nhập địa phương, ngăn chặn nạn phá rừng và đảm bảo rằng, đất dốc được quản lý một cách bền vững. Tuy nhiên, mức độ đạt được mục tiêu của những chính sách này cũng còn có ý kiến khác nhau (Sikor, 2001; Alther và cs., 2002;. Zingerli và cs., 2002; Tran Ngoc Thanh, 2005; Tran Thi Thu Ha, 2007; Tran Thi Thu Ha và Hoang Van Chieu, 2013). Để góp phần làm rõ hơn về tác động của chính sách Đổi mới ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chính sách đổi mới của Việt Nam: Tác động tới cộng đồng vùng cao và quản lý rừng bền vững CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM: TÁC ĐỘNG TỚI CỘNG ĐỒNG VÙNG CAO VÀ QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG Trần Thị Thu Hà Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Phạm Văn Điển Đại học Lâm nghiệp Việt Nam Đặng Tùng Hoa Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Thị Thu Huyền Văn phòng UNDP Việt Nam Trần Đức Viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam Tóm tắt Chính sách Đổi mới của Việt Nam ra đời từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã tạo ra sự chuyển dịch từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chuyển quyền sử dụng đất từ Nhà nước sang các chủ thể sử dụng đất. Một trong những mục tiêu chính của chính sách Đổi mới cho vùng cao là giảm mất rừng, tăng cường quản lý rừng và đất rừng, nhằm cải thiện sinh kế cho người dân. Chính sách này nhằm sử dụng tối ưu rừng và đất rừng bằng cách áp dụng các biện pháp canh tác phù hợp, cũng như chiến lược kết hợp các mục tiêu bảo tồn và phát triển ở vùng cao, với hy vọng việc ban hành chính sách Đổi mới sẽ làm tăng thu nhập cho người dân, giảm mất rừng và quản lý khu vực đất dốc bền vững. Thông qua dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn các bên có liên quan, các nhóm mục tiêu và các hộ gia đình tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu đã chỉ ra rằng, quá trình thực hiện chính sách Đổi mới cho vùng cao vẫn chưa đạt được đầy đủ các mục tiêu ban đầu đặt ra, là cải thiện sinh kế cho người dân và quản lý rừng bền vững. Sinh kế của nhóm người dân trên chuẩn nghèo được cải thiện, trong khi các sinh kế cho nhóm nghèo vẫn còn hạn chế. Tình trạng thiếu đất canh tác cũng như trình độ sản xuất các loại cây trồng mới còn hạn chế là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ đói nghèo còn cao. Tính công bằng chưa cao trong giao quyền sử dụng đất, cũng như cơ hội tiếp cận tài nguyên, đã làm gia tăng khoảng cách giàu - nghèo. 136 Hơn nữa, các chính sách Đổi mới cũng chưa phát huy các tập quán, tri thức bản địa về quản trị tài nguyên rừng của cộng đồng dân tộc. Tổ chức thể chế còn yếu, hiệu quả kém, cũng như thiếu minh bạch trong hệ thống quản lý vẫn là những rào cản, khiến cho chính sách Đổi mới ở vùng cao chưa thành công như mong đợi. Với những kết quả đã đạt được, bài báo được xem như một nghiên cứu điểm, nhằm tạo cơ sở cho việc điều chỉnh những tác động vào hệ thống kinh tế - xã hội và tài nguyên rừng phù hợp với hệ sinh thái nhân văn ở vùng cao Việt Nam. Từ khóa: Chính sách Đổi mới; Cộng đồng vùng cao; Quản lý rừng; Hệ sinh thái nhân văn. GIỚI THIỆU Các chính sách của Chính phủ Việt Nam, được gọi chung là Đổi mới, đã được áp dụng từ cuối những năm 1980. Những chính sách này cho phép quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp, sang nền kinh tế thị trường và chuyển quyền sử dụng đất từ Nhà nước quản lý cho người sử dụng. Một trong những mục tiêu chính của Đổi mới ở vùng cao của Việt Nam là giảm phá rừng và tăng cường tính bền vững của rừng và quản lý đất lâm nghiệp. Chính sách này là kết quả của sự kết hợp hai chiều từ trên xuống và dưới lên (Fforde và Goldstone, 1995; Kerkvliet, 2005). Từ dưới lên đã xuất hiện sự phá rào, khi người dân nông thôn đã không đồng thuận kế hoạch tập trung bao cấp. Thực tế với kinh tế tập trung bao cấp đã dẫn đến tình trạng sản lượng nông nghiệp giảm trên đất thuộc hợp tác xã và Nhà nước đã đưa ra hành động phù hợp để ứng phó với khủng hoảng lương thực ngày càng tăng trong thời kỳ trước Đổi mới. Năm 1988, khoán 10 của Bộ Chính trị đã được ban hành, thay đổi đất nông nghiệp từ sở hữu tập thể sang sở hữu hộ gia đình (GOV, 1988). Điều này cho phép quyền sở hữu các hộ gia đình, cá nhân đối với đất sản xuất nông nghiệp và những lợi ích đã nhanh chóng xuất hiện. Đến năm 1992, Việt Nam từ một nước nhập khẩu gạo đã trở thành một trong các nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới (World Bank, 1994). Từ những thành tựu cải cách nông nghiệp ở các vùng đồng bằng, Chính phủ tiếp tục thực hiện những cải cách khác trong tiến trình Đổi mới, trong đó có cải cách ruộng đất, cải cách kinh tế - xã hội, cải cách lâm nghiệp, v.v... Kể từ đầu những năm 1990, các chính sách Đổi mới đã được triển khai tại các khu vực vùng cao, với mục đích cải thiện sinh kế 137 địa phương và quản lý rừng và đất lâm nghiệp. Các chính sách, bao gồm chuyển quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ Nhà nước đến các hộ gia đình và các thành phần kinh tế khác thông qua Luật Đất đai năm 1993, đã được thực hiện (NAoV, 1993). Đồng thời, Chính phủ đưa ra các cải cách kinh tế và đất đai. Các chính sách đã tìm cách để đạt được sự tối ưu trong sử dụng rừng và đất lâm nghiệp thông qua việc áp dụng các hệ thống canh tác thích hợp và chiến lược kết hợp các mục tiêu bảo tồn và phát triển ở khu vực miền núi. Các chính sách này hy vọng rằng, sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp thích hợp sẽ làm tăng thu nhập địa phương, ngăn chặn nạn phá rừng và đảm bảo rằng, đất dốc được quản lý một cách bền vững. Tuy nhiên, mức độ đạt được mục tiêu của những chính sách này cũng còn có ý kiến khác nhau (Sikor, 2001; Alther và cs., 2002;. Zingerli và cs., 2002; Tran Ngoc Thanh, 2005; Tran Thi Thu Ha, 2007; Tran Thi Thu Ha và Hoang Van Chieu, 2013). Để góp phần làm rõ hơn về tác động của chính sách Đổi mới ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Chính sách đổi mới của Việt Nam Cộng đồng vùng cao Quản lý rừng bền vững Giao quyền sử dụng đất Hệ sinh thái nhân vănGợi ý tài liệu liên quan:
-
105 trang 54 0 0
-
Sổ tay Hướng dẫn xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực lâm nghiệp
164 trang 50 0 0 -
Sổ tay Hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý rừng cộng đồng
63 trang 43 0 0 -
8 trang 41 0 0
-
Sổ tay hướng dẫn thực hiện quản lý rừng bền vững cho rừng trồng
38 trang 39 0 0 -
194 trang 38 0 0
-
Quyết định 214/2020/QĐ-UBND tỉnh QuảngNgãi
3 trang 36 0 0 -
Nâng cao hiệu quả hoạt động quỹ bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam
7 trang 36 0 0 -
160 trang 36 0 0
-
Phát triển nguồn nhân lực trong quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng
7 trang 32 0 0