Chùa có tên là Ninh Phúc Tự, ở bên đê sông Đuống, thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Nhiều tài liệu hiện nay cho biết chùa được dựng vào thời Trần. Sách Chùa Bút Tháp (Bùi Văn Tiến, 2000) cũng nói đến vị trụ trì chùa thời Trần là Thiền sư Huyền Quang, Trúc Lâm đệ tam tổ. Dưới sự bảo trợ của triều đình, chùa được trùng tu vào thế kỷ XVII.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chùa Bút Tháp, ngôi cổ tự danh tiếng vùng Kinh Bắc
Chùa Bút Tháp, ngôi cổ tự danh
tiếng vùng Kinh Bắc
Chùa có tên là Ninh Phúc Tự, ở bên đê sông Đuống, thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình
Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Nhiều tài liệu hiện nay cho biết chùa được dựng vào thời Trần. Sách Chùa Bút
Tháp (Bùi Văn Tiến, 2000) cũng nói đến vị trụ trì chùa thời Trần là Thiền sư Huyền
Quang, Trúc Lâm đệ tam tổ.
Dưới sự bảo trợ của triều đình, chùa được trùng tu vào thế kỷ XVII. Thiền sư
Chuyết Chuyết (tên Lý Thiên Tộ, người tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc đến Thăng Long
giảng dạy Phật pháp từ năm 1633) được mời trụ trì chùa cho đến khi viên tịch (1644).
Vua Lê Chân Tông phong hiệu cho ngài là “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức
Thiền Sư”. Đệ tử của ông là Thiền sư Minh Hành (người tỉnh Giang Tây, Trung Quốc)
tiếp tục trụ trì chùa đến khi viên tịch (1659).
Việc hưng công ngôi chùa có quy mô lớn gắn với tên tuổi của giới quý tộc trong
triều, là Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (con gái của Thanh vương Trịnh Tráng) pháp
danh Diệu Viên, Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên pháp danh Diệu Tuệ và Quận chúa
Trịnh Thị Ngọc Cơ.
Kiến trúc chùa gồm 10 nếp nhà với 162 gian nằm trên một trục dài hơn 100m. Qua
tam quan, đến gác chuông hai tầng tám mái. Tiếp đến là nhà tiền đường, nhà thiêu hương,
thượng điện. Ở đây còn nhiều di vật của thế kỷ XVII như hai tấm bia đá dựng năm 1647,
tấm gỗ chạm hình rồng phượng, chiếc hương án gỗ.
Chung quanh tòa thượng điện có lan can bằng đá với 26 bức phù điêu, trong đó, 8
bức chạm cỏ cây hoa lá gồm sen, cúc, trúc, lan, tùng … và 18 bức chạm các loài động vật
(kèm với các hoa văn khác) gồm ngựa, dê, trâu, khỉ, cá … Nhà nghiên cứu Phan Cẩm
Thượng đã có nhận xét về hệ thống 51 tranh khắc đá vừa đa dạng vừa nhất quán theo thủ
pháp nghệ thuật đảo chiều :Nét chạm bề ngoài thì thô vụng nhưng kỹ xảo hết sức khéo
léo tinh vi, tạo hình tượng thì ngẫu nhiên, tự do nhưng hết sức chắt lọc và khái quát,
nhiều khối lớn có vẻ sơ sài nhưng đường nét rất vi tế, đục khắc trên đá mà cho cảm giác
thoải mái như bậc cao sĩ múa bút thảo thư ...
Tòa thượng điện dựng trên nền cao hơn 1m, gian giữa thờ tượng Tam Thế Phật với
hai bàn hương án bằng gỗ đều được chạm khắc vào thế kỷ XVII. Hai gian bên có nhiều
tượng, đặc sắc là các tượng Tuyết Sơn, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, Quan Âm tọa
sơn … và kiệt tác là bảo tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn do nhà điêu khắc họ
Trương tạc năm 1656.
Bộ tượng Quan Âm có 11 đầu, mặt chính nhìn phía trước, hai mang tai có hai mặt
phụ. Đầu tượng đội thiên quan, phía trên đầu chính có các đầu nhỏ hơn xếp chồng lên
nhau thành ba lớp, trên cùng là tượng đức Phật A Di Đà ngồi tòa sen trong tư thế thiền
định. Chính giữa thiên quan là một đài sen, phía trên có phù điêu đức Phật A Di Đà ngồi
thiền định, có đao lửa tỏa ra chung quanh, có rồng chầu hai bên.
Các đầu tượng đều có khuôn mặt của phụ nữ đôn hậu, tóc chải ngược lên đỉnh búi
thành cuộn, mắt hé mở nhìn xuống, tai tượng lớn và dày, đeo hoa tai là bông sen nở. Cổ
tượng cao, chạm thành ba ngấn.
Có 42 tay lớn, cánh tay đều để trần. Các ngón tay trong tư thế ấn quyết hoặc thiền
định. Ngón tay búp măng, cổ tay đeo vàng kép nổi hạt ở giữa. Vòng dây chuyền đeo từ cổ
xuống ngực. Áo tượng bó sát người với nhiều nếp phủ trên vai, bụng tượng thắt hầu bao.
Tượng ngồi tư thế thiền định, bàn chân phải đặt ngửa trên đùi trái.
Vành tay phụ phía sau làm thành một vòng tròn lớn đặt rời ra phía sau tượng. Trên
đỉnh chạm một con chim có hai đầu người, cánh lớn xòe ra ôm lấy hai bên, đuôi chổng
ngược. Vành tay được trang trí bằng hai đường diềm là văn xoắn và hàng dây cúc. Các
cánh tay nhỏ được xếp thành nhiều lớp (từ 6 lớp ở phía dưới đến 14 lớp ở phía trên). Có
789 tay dài ngắn khác nhau, trong lòng mỗi bàn tay có một con mắt được chạm chìm.
Đài sen được làm từ ba lớp cánh sen chính và một lớp phụ. Trong lòng mỗi cánh
chính có hai gờ nổi nối từ gốc cánh sen lên phía trên rồi cuộn vào giữa để nâng nửa bông
cúc mãn khai.
Tòa sen được một con rồng đội. Rồng có mắt lồi kép, sừng mai, tai hình lá, miệng há
mở, có răng nhọn, miệng ngậm hạt minh châu. Rồng tạc kiểu nhô đầu và hai tay lên trên
mặt biển cuộn sóng, trên mặt sóng là cua, ốc, trai, cá.
Bệ tượng được tạo thành nhiều cấp, nhiều lớp, được trang trí những hàng cánh sen,
những vòng tròn kép, rồng và cá hóa long tranh nhau một quả cầu trên mặt bể, con lân
đang vờn một viên ngọc lửa … Ở đây có ghi bằng chữ Hán niên đại tạo tượng : “Tuế thứ
Bính Thân, thu nguyệt cốc nhật doanh tạo” và người tạo tác : “Nam Đồng Giao Thọ Nam
Trương tiên sinh phụng khắc”.
Tượng có kích thước như sau : Chiều cao của tượng (tính từ đài sen lên) : 235 cm ;
đầu rồng đội tòa sen : 30 cm ; bệ tượng : 54 cm ; chiều ngang của cánh tay xa nhất : 200
cm ; chiều cao của vành tay phụ : 370 cm ; đường kính của vành tay phụ : 224 cm.
Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục vào ngày 04-5-2006 : ...