Danh mục

Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế: Việt Nam và sự khác biệt

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 181.34 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong những năm gần đây, chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) đã có những thay đổi rất lớn, thậm chí chúng ta đã dùng một số chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IAS/ IFRS) áp dụng cho Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn có những điểm khác nhau rất đáng kể giữa VAS và IFRS. Trong bài viết này tác giả chỉ đề cập những khác nhau mà chúng có thể ảnh hưởng lớn đến các quyết định của nhà đầu tư. 1. Các vấn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế: Việt Nam và sự khác biệt Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế: Việt Nam và sự khác biệt Trong những năm gần đây, chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) đã có những thay đổi rất lớn, thậm chí chúng ta đã dùng một số chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IAS/ IFRS) áp dụng cho Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn có những điểm khác nhau rất đáng kể giữa VAS và IFRS. Trong bài viết này tác giả chỉ đề cập những khác nhau mà chúng có thể ảnh hưởng lớn đến các quyết định của nhà đầu tư. 1. Các vấn đề chung và báo cáo kết quả kinh doanh 1.1. Các báo cáo tài chính giữa niên độ. Trong các chuẩn mực VAS 02, 07, 23 liên quan đến việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng giảm giá chứng khoán, hay các điều chỉnh lãi lỗ, phần của nhà đầu tư trong các công ty liên kết, liên doanh và các sự kiện phát sinh sau ngày của bảng cân đối kế toán chỉ điều chỉnh cho báo cáo cuối niên độ. Nghĩa là nếu các sự kiện này phát sinh trong các kỳ giữa niên độ, sẽ không được ghi nhận trong các báo cáo giữa niên độ mà chỉ trình bày ở các báo cáo cuối năm. Trong các tình huống này, IAS yêu cầu phải điều chỉnh vào ngày của bảng cân đối kế toán (giữa và cuối niên độ). 1.2. Báo cáo tài chính hợp nhất. Theo VAS, các báo cáo tài chính hợp nhất chỉ bắt buộc vào cuối năm, các báo cáo giữa niên độ không bắt buộc mà chỉ khuyến khích lập báo cáo tài chính hợp nhất, các tập đoàn chỉ phải công bố báo cáo riêng của công ty mẹ. Thực tế, năm 2008 đã phát sinh trường hợp công ty mẹ VinashinPetro có kết quả kinh doanh rất tốt, nhưng công ty con Đại Nam 100% vốn của VinashinPetro lại bị lỗ rất nặng. Theo VAS, trong năm tập đoàn này chỉ công bố các báo cáo tài chính giữa niên độ của công ty mẹ với kết quả kinh doanh rất tốt. Giá cổ phiếu của VinashinPetro đã tăng rất mạnh. Khi báo cáo tài chính hợp nhất với kết quả rất xấu được công bố, giá cổ phiếu của Công ty đã giảm gần như rơi tự do. Theo IAS/IFRS, các doanh nghiệp phải điều chỉnh, lập và công bố các báo cáo tài chính hợp nhất cho các báo cáo tài chính năm cũng như giữa niên độ. 1.3. Đo lường và trình bày lãi trên mỗi cổ phiếu (EPS). EPS là một trong những chỉ tiêu rất quan trọng và phổ biến mà nó ảnh hưởng rất lớn đến giá cổ phiếu của công ty. Theo VAS, lãi được dùng để tính EPS bao gồm cả các khoản lãi không dành cho các cổ đông phổ thông như lãi để trích quỹ khen thưởng, phúc lợi cho nhân viên và các quỹ khen thưởng không phải cho các cổ đông. Quy định này của VAS không phản ánh trung thực và hợp lý kết quả và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Theo IAS, những khoản thưởng này sẽ được tính vào chi phí để trừ ra khỏi lãi cho việc tính EPS. Ví dụ, năm 2008, Công ty Vinamilk và Than Núi Béo đã trích lập quỹ khen thưởng phúc lợi tương ứng 10% và 30% lợi nhuận thuần sau thuế, do vậy EPS của các công ty này công bố trên các báo cáo tài chính theo VAS là cao hơn so với EPS tính theo IFRS tương ứng là 10% và 30%. 1.4. EPS pha loãng (Diluted EPS) là một chỉ tiêu rất quan trọng cho các nhà đầu tư để dự đoán EPS của doanh nghiệp trong những năm tới. Mặc dù trong VAS 30 có yêu cầu chỉ tiêu EPS suy giảm (pha loãng) nhưng trong thông tư hướng dẫn không quy định rõ ràng và trong biểu mẫu thống nhất của báo cáo kết quả kinh doanh không có chỉ tiêu này, nên các doanh nghiệp không trình bày EPS pha loãng. IAS quy định EPS cơ bản và EPS pha loãng phải được trình bày trên bề mặt của Báo cáo kết quả với mức độ nổi bật như nhau. 1.5. Chia cổ tức bằng cổ phiếu, khác với IAS, VAS và thực tế các công ty không điều chỉnh hồi tố EPS cho những năm trước đó. Trong những trường hợp này, việc phân tích xu hướng EPS qua các năm theo số liệu EPS gốc (không điều chỉnh) sẽ bị sai lệnh rất nghiêm trọng ảnh hưởng lớn đến các quyết định của nhà đầu tư. 1.6. Nhận cổ tức bằng cổ phiếu. VAS ghi là một khoản thu nhập theo mệnh giá khoản cổ tức được nhận. Tuy nhiên, theo IAS, kế toán không ghi tăng thu nhập vì bản chất của nó không hề tăng thu nhập (giá tham chiếu giảm tương ứng), IAS chỉ ghi một bút toán ghi nhớ để ghi tăng số lượng cổ phiếu đầu tư tăng lên và ghi giảm giá vốn của mỗi cổ phiếu đầu tư xuống tương ứng, nhưng tổng giá vốn cổ phiếu không đổi. 1.7. Khái niệm lãi hoạt động kinh doanh (Operating income). Để việc so sánh và quản trị được tốt hơn, IAS định nghĩa lãi hoạt động kinh doanh là các khoản lãi lỗ từ các hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, nó không bao gồm các khoản thu nhập và chi phí tài chính như của VAS. 2. So sánh giữa VAS và IAS trong các khoản mục của bảng cân đối kế toán 2.1. Thành phẩm, theo IAS và VAS được tính theo phương pháp giá thành thông thường (Normal costing) nghĩa là chi phí sản xuất chung phân bổ theo mức độ hoạt động bình thường của doanh nghiệp nhưng trên thực tế đa phần công ty Việt Nam vẫn tính giá thành theo phương pháp thực tế, phân bổ chi phí chung theo thực tế hàng tháng. Điều này làm cho giá thành sản phẩm có thể bi ...

Tài liệu được xem nhiều: