Danh mục

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ HỆ THỐNG KÊNH PHÂN PHỐI BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ

Số trang: 37      Loại file: docx      Dung lượng: 64.68 KB      Lượt xem: 21      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (37 trang) 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chúng ta đã từng nghe nói nhiều về bảo hiểm, nhưng không phải ai hiểu đúng ý nghĩa hoạt động đó. Nội dung của phần này sẽ giải thích thế nào là bảo hiểm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ HỆ THỐNG KÊNH PHÂN PHỐI BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ HỆ THỐNG KÊNH PHÂN PHỐI BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 1.1 Khái quát chung về bảo hiểm phi nhân thọ 1.1.1 Khái niệm và đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ 1.1.1.1 Khái niệm a. Bảo hiểm là gì? Chúng ta đã từng nghe nói nhiều về bảo hiểm, nhưng không phải ai hiểu đúng ý nghĩa hoạt động đó. Nội dung của phần này sẽ gi ải thích th ế nào là bảo hiểm. “ Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thông qua đó m ột cá nhân hay tổ chức ( Người tham gia bảo hiểm) ch ấp nhận đóng góp m ột khoản tiền nhất định ( Phí bảo hiểm) cho tổ chức khác (Người b ảo hi ểm) để đổi lấy những cam kết về những khoản bồi th ường ho ặc chi trả khi có sự kiện quy định trong hợp đồng xảy ra.” - Thỏa thuận hợp pháp về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng và hợp pháp về các nội dung ký kết trong hợp đồng. Ví dụ các điều kiện bảo hi ểm, mức phí phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có đầy đủ tư cách pháp lý. - Người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm đại di ện cho cả cá nhân hoặc tổ chức ( hội, nhóm, công ty…có đăng ký chính th ức). Ở Vi ệt Nam, chỉ có các công ty có đăng ký và được c ấp phép thì m ới đ ược kinh doanh b ảo hiểm. Bởi vậy, người bảo hiểm ở đây chỉ bao gồm các công ty bảo hiểm. b. Bảo hiểm phi nhân thọ: Bảo hiểm phi nhân thọ là một trong hai lo ại hình bảo hiểm th ương mại. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm qua đó công ty bảo hi ểm cam kết sẽ trả một số tiền thỏa thuận khi có sự kiện quy định xảy ra liên quan đ ến sinh mạng và sức khỏe của con người. Thì “ Bảo hiểm phi nhân thọ là các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại khác không phải là bảo hiểm nhân th ọ, là loại hình bảo hiểm qua đó công ty bảo hiểm cam k ết s ẽ chi trả b ồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra liên quan đến tổn thất về vật chất và tai nạn con người, trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm” 1.1.1.2 Đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ. a. Đặc điểm chung: Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và bảo hiểm nói chung có đặc trưng là ngành dịch vụ đặc biệt. Nó đặc biệt bởi: - Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình: thế nào là sản phẩm vô hình? Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, m ột lời cam kết mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng phí để đổi lấy những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai. Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể cảm nhận đ ược qua cac giác quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra mầu sắc, hình dáng, kích thước hay mùi vị của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận được bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó, ngủi hoặc nếm thử… Để khắc phục những khó khăn đó, cũng là để c ủng c ố lòng tin c ủa khách hàng, các doanh nghiệp bảohiểm tìm cách tăngtính h ữu hình c ủa s ản phẩm: chú ý những lợi ích có liên quan đến dịch vụ: sử dụng những người n ổi tiếng, có uy tín tuyên truyền dịch vụ; phát tri ển hệ thống đại lý chuyên nghi ệp; xây dựng uy tín của công ty bảo hiểm; tăng cường vai trò quan tr ọng c ủa ho ạt động marketing. Như vậy, lòng tin và chất lượng dịch vụ khách hàng chính là chìa khóa để bán sản phẩm bảo hiểm - Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược: Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thông thường, khi giá cả được quyết định sau khi đã biết được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Nh ư v ậy, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hữu hình phải bỏ vốn ra tr ước, mua các máy móc, nguyên vật liêu, thuê nhân công thì mới sản xuất ra sản phẩm và thực hiện quy trình đưa sản phẩm đến người tiêu dùng, khi sản ph ẩm đó bán đ ược doanh nghiệp mới thu tiền về, trong khoản tiền này bao gồm cả vốn doanh nghiệp bỏ ra và lãi doanh nghiệp nhận được. Còn doanh nghiệp bảo hi ểm không phải bỏ vốn trước, họ nhận phí bảohiểm trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau với bên được bảo hi ểm khi xảy ra s ự cố bảo hiểm. Do vậy, không thể tính được chính xác hi ệu quả c ủa m ột sản phẩm bảohiểm vào thời điểm bán sản phẩm. Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được coi là có hiệu lực ngay sau khi có sự chấp nhận của Người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo hợp đồng. Phí bảo hiểm mà khách hàng đóng khi ký hợp đồng chính là giá bán một hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ, công ty bảo hiểm B bán bảo hiểm tai nạn con người. Người tham gia bảo hiểm đóng phí để mua dịch vụ bảo hiểm vào ngày đầu năm. Công ty bảohiểm B có ngay doanh thu từ đầu năm. Các hợp đ ồng b ảo hi ểm này s ẽ kết thức vào ngày cuối năm, khi đó trách nhiệm c ủa các công ty b ảo hi ểm B trước các tổn thất – theo như thỏa thuận trong hợp đồng – sẽ chấm d ứt. Đ ến ngày cuối năm, công ty bảo hiểm B mới có thể tính được chi phí tri ển khai d ịch vụ bảo hiểm này. Tương tự như vậy là chi phí hoạt động của công ty. Chu trình kinh doanh của bảo hiểm có đặc điểm là công ty bảo hi ểm đ ịnh giá bán dịch vụ của mình trước khi tính toán được chi phí mình bỏ ra. Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đưa loại sản phẩm nào ra thị trường. Nếu một sản phẩm đưa ra được đông đảo người mua chấp nhận, công ty bảo hiểm sẽ thu về một kho ản tổng phí bảo hi ểm rất l ớn. Khi rủi ro xảy ra cho một số khách hàng nào đó, công ty bảo hi ểm có đủ khả năng chi trả mà ...

Tài liệu được xem nhiều: