CHƯƠNG 2: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG (Phần 4)
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 155.26 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
II.-TRÌNH ĐỘ CHẤT LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG TOÀN PHẦNTừ lâu, người ta có xu thế nghiên cứu chất lượng sản phẩm chủ yếu dựa vào tính kỹ thuật của nó mà xem nhẹ tính kinh tế-xã hội. Trong nền kinh tế thị trường , nếu coi thường mặt kinh tế-xã hội của sản phẩm thì đã thất bại một nửa trong kinh doanh.Người sản xuất có nhiệm vụ và phải quan tâm đến lợi ích của người tiêu dùng, họ phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình sản xuất ra trong quá trình sử dụng cả về...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG (Phần 4) CHƯƠNG 2: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG (Phần 4) II.-TRÌNH ĐỘ CHẤT LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG TOÀNPHẦN Từ lâu, người ta có xu thế nghiên cứu chất lượng sản phẩmchủ yếu dựa vào tính kỹ thuật của nó mà xem nhẹ tính kinh tế-xã hội. Trong nềnkinh tế thị trường , nếu coi thường mặt kinh tế-xã hội của sản phẩm thì đã thất bạimột nửa trong kinh doanh. Người sản xuất có nhiệm vụ và phải quan tâm đến lợi ích của người tiêudùng, họ phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình sản xuất ra trong quá trìnhsử dụng cả về mặt lượng nhu cầu lẫn giá nhu cầu. Để miêu tả sự liên quan giữa 2 mặt lợi ích có thể đạt được vàchi phí thỏa mãn nhu cầu, hay nói theo cách khác là giữa lượng và giá nhu cầu cóthể được thỏa mãn bởi sản phẩm , các nhà khoa học đưa ra khái niệm trình độ chấtlượng (Tc). TC là tỉ số giữa lượng nhu cầu có khả năng được thỏa mãn(Lnc) và chi phí để thỏa mãn nhu cầu (Gnc) *Lnc có thể được tính bằng lượng công việchay lượng nhu cầu hay bằng các đại lượng hữu ích khác. *Gnc bao gồm chi phí sản xuất (biểu thị bằnggiá mua) và chi phí sử dụng (chi tiêu trong suốt quá trình sử dụng) Vậy “Trình độ chất lượng là khả năng thỏa mãn số lượngnhu cầu xác định trong những điều kiện quan sát tính cho một đồng chi phí để sảnxuất và sử dụng sản phẩm đó” Tc thực chất là đặc tính kinh tế kỹ thuật phản ánh khả năngtiềm tàng của sản phẩm, khả năng nầy chỉ có thể thực hiện được nếu chất lượngsản phẩm phù hợp với nhu cầu. Một vấn đề đặt ra là cần phải có một khái niệm mới có khảnăng hiện thực hóa trình độ chất lượng trong thực tế. Người ta đưa ra khái niệm chất lượng toàn phần (QT). Chất lượng toànphần hay chất lượng tổng hợp phản ánh quan hệ giữa lượng và giá nhu cầu đượcthỏa mãn. “Chất lượng toàn phần của sản phẩm là mối tương quangiữa lượng nhu cầu thực tế được thỏa mãn (Ltt) và tổng chi phí để sản xuất và sửdụng nó (Gnc)” Trong sản xuất kinh doanh , khi mà chất lượng sản phẩm trởthành sự sống còn của các doanh nghiệp thì QT với tư cách là đại lượng cuối cùngquyết định chất lượng sản phẩm, và mục tiêu của quản trị chất lượng là đạt tới giátrị cực đại của QT. TC và QT là sự phối hợp hài hòa giữa chất lượng , giá trị sửdụng và giá trị. Hai chỉ tiêu TC và QT về bản chất khoa học không khác nhau. Khi thiết kế sản phẩm các nhà sản xuất đều mong muốn sản phẩm củamình đạt lợi ích tối đa khi sử dụng, nghĩa là người tiêu dùng bỏ ra một đồng có thểthu được lợi ích cao hơn bao nhiêu so với sản phẩm cùng loại, và đúng như thiếtkế. Nhưng trong thực tế nhiều khi không đạt được điều đó, lợi ích mà ngườitiêu dùng thu được nhỏ hơn dự tính trong thiết kế. Người ta dùng chỉ tiêu hệ sốhiệu quả sử dụng (ký hiệu là h) để đánh giá. Hệ số hiệu quả sử dụng của sản phẩm là tỉ số giữa QT so với TC, tức là tỉsố giữa lượng nhu cầu thực tế được thỏa mãn so với lượng nhu cầu có khả năngthỏa mãn của sản phẩm: Từ giá trị của h, người ta có thể suy ra SCP của sản phẩmnhư sau : Bất kỳ nhà kinh doanh nào khi tham gia thị trường đều quan tâm đếnvấn đề cạnh tranh giá cả là chủ yếu hay chất lượng là chủ yếu. Về đại thể, giá cả là một chỉ tiêu quan trọng trong cạnh tranh, dù cho chấtlượng sản phẩm có hoàn hảo bao nhiêu đi nữa. Ngày nay, các nhà kinh doanhkhông những chỉ quan tâm đến giá bán, giá mua sản phẩm mà còn phải quan tâmrất lớn đến những chi phí trong quá trình sử dụng chúng. Đối với người tiêu dùng, chi phí để thỏa mãn nhu cầu (Gnc)gồm giá mua và những chi phí trong quá trình sử dụng sản phẩm. Trong hình 2.2, chi phí sản xuất tỉ lệ thuận với chất lượng còn chi phí tiêudùng tỉ lệ nghịch với chất lượng. Giao điểm của 2 đường chi phí theo quan niệmcũ là điểm tối ưu về chất lượng và chi phí trong kinh doanh. Ngược lại trong hình 2.3, chi phí sản xuất tỉ lệ nghịch với chấtlượng, hay như người ta thường nói “nâng cao chất lượng, hạ giá thành sảnphẩm”, thực chất đây là một nghịch lý nhưng đó lại là xu thế trong cạnh tranh,doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển buộc phải tìm cách thực hiện cho đượcnghịch lý trên. Cạnh tranh trong môi trường kinh doanh ngày càng gay gắt trên qui môtoàn cầu khiến các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh theo xu thế nâng cao chấtlượng giảm giá thành sản phẩm . Suy cho cùng, cạnh tranh về giá cả cũng chính làcạnh tranh về chất lượng vậy ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG (Phần 4) CHƯƠNG 2: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG (Phần 4) II.-TRÌNH ĐỘ CHẤT LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG TOÀNPHẦN Từ lâu, người ta có xu thế nghiên cứu chất lượng sản phẩmchủ yếu dựa vào tính kỹ thuật của nó mà xem nhẹ tính kinh tế-xã hội. Trong nềnkinh tế thị trường , nếu coi thường mặt kinh tế-xã hội của sản phẩm thì đã thất bạimột nửa trong kinh doanh. Người sản xuất có nhiệm vụ và phải quan tâm đến lợi ích của người tiêudùng, họ phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình sản xuất ra trong quá trìnhsử dụng cả về mặt lượng nhu cầu lẫn giá nhu cầu. Để miêu tả sự liên quan giữa 2 mặt lợi ích có thể đạt được vàchi phí thỏa mãn nhu cầu, hay nói theo cách khác là giữa lượng và giá nhu cầu cóthể được thỏa mãn bởi sản phẩm , các nhà khoa học đưa ra khái niệm trình độ chấtlượng (Tc). TC là tỉ số giữa lượng nhu cầu có khả năng được thỏa mãn(Lnc) và chi phí để thỏa mãn nhu cầu (Gnc) *Lnc có thể được tính bằng lượng công việchay lượng nhu cầu hay bằng các đại lượng hữu ích khác. *Gnc bao gồm chi phí sản xuất (biểu thị bằnggiá mua) và chi phí sử dụng (chi tiêu trong suốt quá trình sử dụng) Vậy “Trình độ chất lượng là khả năng thỏa mãn số lượngnhu cầu xác định trong những điều kiện quan sát tính cho một đồng chi phí để sảnxuất và sử dụng sản phẩm đó” Tc thực chất là đặc tính kinh tế kỹ thuật phản ánh khả năngtiềm tàng của sản phẩm, khả năng nầy chỉ có thể thực hiện được nếu chất lượngsản phẩm phù hợp với nhu cầu. Một vấn đề đặt ra là cần phải có một khái niệm mới có khảnăng hiện thực hóa trình độ chất lượng trong thực tế. Người ta đưa ra khái niệm chất lượng toàn phần (QT). Chất lượng toànphần hay chất lượng tổng hợp phản ánh quan hệ giữa lượng và giá nhu cầu đượcthỏa mãn. “Chất lượng toàn phần của sản phẩm là mối tương quangiữa lượng nhu cầu thực tế được thỏa mãn (Ltt) và tổng chi phí để sản xuất và sửdụng nó (Gnc)” Trong sản xuất kinh doanh , khi mà chất lượng sản phẩm trởthành sự sống còn của các doanh nghiệp thì QT với tư cách là đại lượng cuối cùngquyết định chất lượng sản phẩm, và mục tiêu của quản trị chất lượng là đạt tới giátrị cực đại của QT. TC và QT là sự phối hợp hài hòa giữa chất lượng , giá trị sửdụng và giá trị. Hai chỉ tiêu TC và QT về bản chất khoa học không khác nhau. Khi thiết kế sản phẩm các nhà sản xuất đều mong muốn sản phẩm củamình đạt lợi ích tối đa khi sử dụng, nghĩa là người tiêu dùng bỏ ra một đồng có thểthu được lợi ích cao hơn bao nhiêu so với sản phẩm cùng loại, và đúng như thiếtkế. Nhưng trong thực tế nhiều khi không đạt được điều đó, lợi ích mà ngườitiêu dùng thu được nhỏ hơn dự tính trong thiết kế. Người ta dùng chỉ tiêu hệ sốhiệu quả sử dụng (ký hiệu là h) để đánh giá. Hệ số hiệu quả sử dụng của sản phẩm là tỉ số giữa QT so với TC, tức là tỉsố giữa lượng nhu cầu thực tế được thỏa mãn so với lượng nhu cầu có khả năngthỏa mãn của sản phẩm: Từ giá trị của h, người ta có thể suy ra SCP của sản phẩmnhư sau : Bất kỳ nhà kinh doanh nào khi tham gia thị trường đều quan tâm đếnvấn đề cạnh tranh giá cả là chủ yếu hay chất lượng là chủ yếu. Về đại thể, giá cả là một chỉ tiêu quan trọng trong cạnh tranh, dù cho chấtlượng sản phẩm có hoàn hảo bao nhiêu đi nữa. Ngày nay, các nhà kinh doanhkhông những chỉ quan tâm đến giá bán, giá mua sản phẩm mà còn phải quan tâmrất lớn đến những chi phí trong quá trình sử dụng chúng. Đối với người tiêu dùng, chi phí để thỏa mãn nhu cầu (Gnc)gồm giá mua và những chi phí trong quá trình sử dụng sản phẩm. Trong hình 2.2, chi phí sản xuất tỉ lệ thuận với chất lượng còn chi phí tiêudùng tỉ lệ nghịch với chất lượng. Giao điểm của 2 đường chi phí theo quan niệmcũ là điểm tối ưu về chất lượng và chi phí trong kinh doanh. Ngược lại trong hình 2.3, chi phí sản xuất tỉ lệ nghịch với chấtlượng, hay như người ta thường nói “nâng cao chất lượng, hạ giá thành sảnphẩm”, thực chất đây là một nghịch lý nhưng đó lại là xu thế trong cạnh tranh,doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển buộc phải tìm cách thực hiện cho đượcnghịch lý trên. Cạnh tranh trong môi trường kinh doanh ngày càng gay gắt trên qui môtoàn cầu khiến các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh theo xu thế nâng cao chấtlượng giảm giá thành sản phẩm . Suy cho cùng, cạnh tranh về giá cả cũng chính làcạnh tranh về chất lượng vậy ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
quản trị sản xuất quản lý chất lượng phương pháp quản lý quản trị doanh nghiệp khái niệm chất lượng sản phẩm trình độ chất lượngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Những mẹo mực để trở thành người bán hàng xuất sắc
6 trang 335 0 0 -
167 trang 294 1 0
-
Chương 2 : Các công việc chuẩn bị
30 trang 294 0 0 -
Làm thế nào để trở thành quản trị mạng
5 trang 269 0 0 -
3 trang 262 4 0
-
Thông tư số 12/2018/TT-BNNPTNT
35 trang 254 0 0 -
Nghiên cứu tâm lý học hành vi đưa ra quyết định và thị trường: Phần 2
236 trang 223 0 0 -
Bài giảng Kinh tế vi mô - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
92 trang 221 0 0 -
Bài giảng Nguyên lý Quản trị học - Chương 2 Các lý thuyết quản trị
31 trang 217 0 0 -
Quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp
7 trang 206 0 0