![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Chuyên đề luật kinh tế trong thẩm định giá
Số trang: 15
Loại file: doc
Dung lượng: 88.00 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trên cơ sở kế thừa các Luật đất đai trước đây, xây dựng luật đất đai mới với tinh thần đơn giản hoá hệ thống pháp luật đất đai, pháp điển hoá với tinh thần cao nhất
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chuyên đề luật kinh tế trong thẩm định giá Chuyên đề Luật kinh tế Các nội dung cơ bản về luật đất đai năm 2003. Trước khi có Luật đất đai năm 2003, ở Việt Nam đã từng có Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1993 vào các năm 1998 và năm 2001. Tuy nhiên, các Luật đất đai đó chưa thể đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Vì vậy, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ra nghị quyết về việc xây dựng Luật đất đai sửa đổi để thay thế cho Luật đất đai năm 1993 và các Luật đất đai sửa đổi bổ sung. Chính phủ đã giao nhiệm vụ này cho Bộ Tài nguyên và Môi trường trực tiếp soạn thảo từ tháng 1/2003. Với 4 lần soạn thảo, dự thảo này được đưa ra lấy ý kiến các đại biểu Quốc hội, nhiều ý kiến chưa đồng ý với các quan điểm của ban soạn thảo. Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XI đã đề nghị ban soạn thảo chỉnh lý lại và hoàn thành dự thảo lần thứ 6 và lấy ý kiến nhân dân cả nước từ ngày 1/8 đến 20/9/2003. Đây là đợt nghiên cứu và sinh hoạt chính trị pháp lý của nhân dân cả nước nhằm đóng góp ý kiến cho một dự luật vô cùng quan trọng liên quan đến mọi tầng lớp trong xã hội, mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI, Luật đất đai mới được thông qua và sẽ có hiệu lực pháp lý từ ngày 1/7/2004, sẽ thay thế cho Luật đất đai năm 1993 và các Luật đất đai sửa đổi bổ sung. I. Quan điểm chỉ đạo khi xây dựng Luật đất đai năm 2003 là: 1. Đây là Luật đất đai mới nhằm thể chế các quan điểm cơ bản được đề cập trong Nghị quyết trung ương Đảng về đổi mới chính sách và pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Luật đất đai mới vẫn dựa trên nền tảng đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý đất đai. 3. Trên cơ sở kế thừa các Luật đất đai trước đây, xây dựng luật đất đai mới với tinh thần đơn giản hoá hệ thống pháp luật đất đai, pháp điển hoá với tinh thần cao nhất. Các văn bản pháp luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm và phù hợp với thực tế sẽ được chọn lọc đưa vào luật, luật hoá một số Nghị định của Chính phủ để giảm thiểu các văn bản thi hành của Chính phủ và các bộ ngành vốn dĩ làm cho hệ thống pháp luật đất đai của chúng ta trở nên phức tạp. II. Quan điểm về sở hữu đất đai. Trước đây việc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý là chưa rõ ràng, chung chung và rất trìu tượng. Xét về phương diện pháp lý thì nhà nước không phải là chủ sở hữu, vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước chỉ là người thực hiện quyền thống nhất quản lý trong phạm vi cả nước. Nếu trong Luật đất đai năm 2003 chúng ta không nhận thức lại vấn đề sở hữu, thì chắc rằng, trong văn bản luật đó vẫn tiềm ẩn những nguy cơ của sự bảo thủ, duy ý chí và chưa hướng tới quy luật chung của sự phát triển. Vì vậy, trong Luật đất đai 2003 thể hiện các quan điểm quan trọng sau: 1. Nhà nước thực hiện 2 vai trò, một là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thứ hai là người thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. ( ở bất cứ giai đoạn nào thì nhà nước cũng vẫn là người thống nhất quản lý đất đai, song trong vai trò là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thì nhà nước lần đầu tiên được khắc hoạ rõ trong Luật đất đai năm 2003 ). Xuất phát từ vấn đề đó nhà nước có quyền của người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Khoản 2 Điều 5 xác định quyền định đoạt của nhà nước như sau: + Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai. + Quy định về hạn mức giao đất, thời hạn sử dụng đất. + Quyết định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất. + Định giá đất. 2. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua chính sách tài chính về đất đai như: + Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. + Thu các loại thuế, phí và lệ phí + Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do sự đầu tư từ phía người sử dụng đất. 3. Nhà nước thực hiện việc trao quyền sử dụng đất thông qua các hình thức sau: + Hình thức giao đất. + Hình thức cho thuê đất. + Công nhận quyền sử dụng đất. + Quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. 4. Nhà nước phân công phân cấp trong việc thực hiện vai trò người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai ( Điều 7 ). + Vai trò của Quốc hội trong việc quyết định quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước, thực hiện quyền giám sát tối cao trong quản lý và sử dụng đất. + Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền giám sát việc quản lý sử dụng đất ở các địa phương. + Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về đất đai, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai củâ các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. + Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai ở địa phương mình. + Bộ Tài nguyên và Môi trường giúp Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về đất đai. Như vậy, Luật đất đai năm 2003 thể hiện các vấn đề rất rõ ràng không còn tình trạng chung chung và trừu tượng như trước đây. III. Vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cơ bản hoàn thành đối với đất nông nghiệp, đạt tỷ lệ cao đối với đất lâm nghiệp song còn quá chậm đối với đất khu dân cư, đặc biệt là đất đô thị. Luật đất đai năm 2003 ra đời sẽ góp phần đẩy mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong cả nước. 1. Các quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo một mẫu thống nhất và do Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành. Điều đó có nghĩa là, từ trước tới nay các mẫu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều do cơ quan quản lý đất đai trung ương phát hành, có một thời là Tổng cục quản lý ruộng đất, Tổng cục địa chính. Các giấ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chuyên đề luật kinh tế trong thẩm định giá Chuyên đề Luật kinh tế Các nội dung cơ bản về luật đất đai năm 2003. Trước khi có Luật đất đai năm 2003, ở Việt Nam đã từng có Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1993 vào các năm 1998 và năm 2001. Tuy nhiên, các Luật đất đai đó chưa thể đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Vì vậy, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ra nghị quyết về việc xây dựng Luật đất đai sửa đổi để thay thế cho Luật đất đai năm 1993 và các Luật đất đai sửa đổi bổ sung. Chính phủ đã giao nhiệm vụ này cho Bộ Tài nguyên và Môi trường trực tiếp soạn thảo từ tháng 1/2003. Với 4 lần soạn thảo, dự thảo này được đưa ra lấy ý kiến các đại biểu Quốc hội, nhiều ý kiến chưa đồng ý với các quan điểm của ban soạn thảo. Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XI đã đề nghị ban soạn thảo chỉnh lý lại và hoàn thành dự thảo lần thứ 6 và lấy ý kiến nhân dân cả nước từ ngày 1/8 đến 20/9/2003. Đây là đợt nghiên cứu và sinh hoạt chính trị pháp lý của nhân dân cả nước nhằm đóng góp ý kiến cho một dự luật vô cùng quan trọng liên quan đến mọi tầng lớp trong xã hội, mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI, Luật đất đai mới được thông qua và sẽ có hiệu lực pháp lý từ ngày 1/7/2004, sẽ thay thế cho Luật đất đai năm 1993 và các Luật đất đai sửa đổi bổ sung. I. Quan điểm chỉ đạo khi xây dựng Luật đất đai năm 2003 là: 1. Đây là Luật đất đai mới nhằm thể chế các quan điểm cơ bản được đề cập trong Nghị quyết trung ương Đảng về đổi mới chính sách và pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Luật đất đai mới vẫn dựa trên nền tảng đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý đất đai. 3. Trên cơ sở kế thừa các Luật đất đai trước đây, xây dựng luật đất đai mới với tinh thần đơn giản hoá hệ thống pháp luật đất đai, pháp điển hoá với tinh thần cao nhất. Các văn bản pháp luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm và phù hợp với thực tế sẽ được chọn lọc đưa vào luật, luật hoá một số Nghị định của Chính phủ để giảm thiểu các văn bản thi hành của Chính phủ và các bộ ngành vốn dĩ làm cho hệ thống pháp luật đất đai của chúng ta trở nên phức tạp. II. Quan điểm về sở hữu đất đai. Trước đây việc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý là chưa rõ ràng, chung chung và rất trìu tượng. Xét về phương diện pháp lý thì nhà nước không phải là chủ sở hữu, vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước chỉ là người thực hiện quyền thống nhất quản lý trong phạm vi cả nước. Nếu trong Luật đất đai năm 2003 chúng ta không nhận thức lại vấn đề sở hữu, thì chắc rằng, trong văn bản luật đó vẫn tiềm ẩn những nguy cơ của sự bảo thủ, duy ý chí và chưa hướng tới quy luật chung của sự phát triển. Vì vậy, trong Luật đất đai 2003 thể hiện các quan điểm quan trọng sau: 1. Nhà nước thực hiện 2 vai trò, một là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thứ hai là người thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. ( ở bất cứ giai đoạn nào thì nhà nước cũng vẫn là người thống nhất quản lý đất đai, song trong vai trò là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thì nhà nước lần đầu tiên được khắc hoạ rõ trong Luật đất đai năm 2003 ). Xuất phát từ vấn đề đó nhà nước có quyền của người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Khoản 2 Điều 5 xác định quyền định đoạt của nhà nước như sau: + Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai. + Quy định về hạn mức giao đất, thời hạn sử dụng đất. + Quyết định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất. + Định giá đất. 2. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua chính sách tài chính về đất đai như: + Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. + Thu các loại thuế, phí và lệ phí + Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do sự đầu tư từ phía người sử dụng đất. 3. Nhà nước thực hiện việc trao quyền sử dụng đất thông qua các hình thức sau: + Hình thức giao đất. + Hình thức cho thuê đất. + Công nhận quyền sử dụng đất. + Quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. 4. Nhà nước phân công phân cấp trong việc thực hiện vai trò người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai ( Điều 7 ). + Vai trò của Quốc hội trong việc quyết định quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước, thực hiện quyền giám sát tối cao trong quản lý và sử dụng đất. + Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền giám sát việc quản lý sử dụng đất ở các địa phương. + Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về đất đai, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai củâ các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. + Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai ở địa phương mình. + Bộ Tài nguyên và Môi trường giúp Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về đất đai. Như vậy, Luật đất đai năm 2003 thể hiện các vấn đề rất rõ ràng không còn tình trạng chung chung và trừu tượng như trước đây. III. Vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cơ bản hoàn thành đối với đất nông nghiệp, đạt tỷ lệ cao đối với đất lâm nghiệp song còn quá chậm đối với đất khu dân cư, đặc biệt là đất đô thị. Luật đất đai năm 2003 ra đời sẽ góp phần đẩy mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong cả nước. 1. Các quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo một mẫu thống nhất và do Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành. Điều đó có nghĩa là, từ trước tới nay các mẫu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều do cơ quan quản lý đất đai trung ương phát hành, có một thời là Tổng cục quản lý ruộng đất, Tổng cục địa chính. Các giấ ...
Tài liệu liên quan:
-
30 trang 563 0 0
-
36 trang 321 0 0
-
Giáo trình Đầu tư và kinh doanh bất động sản: Phần 2
208 trang 298 5 0 -
Những quy định trong luật cạnh tranh
40 trang 247 0 0 -
88 trang 241 0 0
-
Tài liệu thẩm định dự án đầu tư - Phần 1
42 trang 233 0 0 -
27 trang 231 0 0
-
208 trang 226 0 0
-
Pháp luật kinh doanh bất động sản
47 trang 214 4 0 -
BIỂU MẪU Báo cáo tình hình hoạt động quản lý danh mục đầu tư Phụ lục 13
2 trang 200 0 0