Chuyên nghiệp hoá hoạt động sáng tác: một đòi hỏi tất yếu của công cuộc_2
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 202.64 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nhất Linh, Khái Hưng cùng một xu hướng tiểu thuyết, họ tâm đầu ý hợp đến mức nhiều tác phẩm có thể đứng tên chung(15). Nhưng với tư cách là các tác giả chuyên nghiệp, không bằng lòng những gì đã có, hai ông luôn có những tìm tòi riêng mang phong cách cá nhân qua các sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết của mình
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
"Chuyên nghiệp hoá" hoạt động sáng tác: một đòi hỏi tất yếu của công cuộc_2 Chuyên nghiệp hoá hoạtđộng sáng tác: một đòi hỏi tất yếu của công cuộc Nhất Linh, Khái Hưng cùng một xu hướng tiểu thuyết, họ tâm đầu ý hợp đến mứcnhiều tác phẩm có thể đứng tên chung(15). Nhưng với tư cách là các tác giả chuyênnghiệp, không bằng lòng những gì đã có, hai ông luôn có những tìm tòi riêng mangphong cách cá nhân qua các sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết của mình. Chẳng hạn, viếttruyện ngắn, nếu Nhất Linh dường như “chỉ phản ánh tâm hồn mình, kể lể những bănkhoăn của mình, theo đuổi một giấc mộng của mình”(16), thì Khái Hưng, khác hẳn, ông“nhặt nhạnh chuyện người”(17), dùng tấm gương pha lê của tâm hồn mình để phản chiếuhình thái của cả một xã hội và tâm sự nhiều vẻ của người đời. Trong kĩ thuật truyệnngắn, Nhất Linh, với năng lực ưu trội trong việc đi sâu vào thế giới tinh thần cá nhân củacon người, thường nghiêng về những tìm tòi thể nghiệm miêu tả tâm lý, kĩ thuật phôdiễn tiếng nói nội tâm của nhân vật (ngay cả khi ông dùng đến các chất liệu kì ảo); KháiHưng, với năng lực ngữ cảm và các nhận xét tinh tế ít nhiều mang tính chất “siêu ngônngữ”(18), lại thường chú trọng đặc biệt đến ngôn ngữ đối thoại và luôn có ý thức miêu tảgiọng điệu, lời nói của các loại nhân vật, các hạng người trong xã hội. 2.3. Chuyên nghiệp hóa các hoạt động hỗ trợ sáng tác, tạo định hướng thưởngthức, và tổ chức tiêu thụ tác phẩm Thực tế hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX cho thấy xu hướngchuyên nghiệp hóa sáng tác chỉ thật sự được đẩy mạnh khi có đủ điều kiện và có đượcsự hỗ trợ của nhiều khâu hoạt động liên quan khác. Về điều kiện, sáng tác chuyên nghiệp cần hình thành nuôi dưỡng trong một bầusinh quyển mới. Đó là bầu sinh quyển thân thiện giữa người sáng tác – sở hữu tác phẩmvới người thưởng thức – tiêu thụ sản phẩm tinh thần thông qua ấn phẩm. Giờ đây, đốivới độc giả, hành vi thưởng thức cái đẹp văn chương gắn liền với hành vi tiêu thụ hànghóa. Mối quan hệ thân thiện, tốt đẹp giữa tác giả và công chúng tất nhiên sẽ tạo điềukiện thuận lợi cho sáng tác và tiếp nhận, thưởng thức và tiêu thụ văn học. Cũng vì thế,sáng tác chuyên nghiệp đòi hỏi một tinh thần cộng sinh, cộng cảm trong cộng đồng vănhọc mới. Sáng tác của các nhà văn chuyên nghiệp thế hệ 1932-1945 rõ ràng đã được nuôidưỡng trong một bầu sinh quyển thân thiện như thế. Những nhà văn chuyên nghiệp, nổitiếng, được công chúng bấy giờ hâm mộ viết truyện, làm thơ, soạn kịch đến đâu, tòa báocho đăng tải hoặc nhà xuất bản cho in đến đấy. Tên tuổi cứ thế mà tỏa sáng. Tác phẩmcủa họ được giới thiệu, quảng cáo, được đón đọc, được vinh danh. Không ít nhà văn thờiấy còn được nâng đỡ bởi các tổ chức văn học, các tờ báo, các nhà in, các bậc đàn anhtrong văn giới và cả các giải thưởng có uy tín. Hẳn nhiều người còn nhớ, trong nhữnglần Tự lực văn đoàn trao giải thưởng cho các tác giả, tác phẩm được giải, ngoài giấychứng nhận, tiền thưởng của ban tổ chức, còn có cả những khoản tiền không nhỏ do mộtcá nhân (hay một nhóm) độc giả nào đó nhờ ban tổ chức trao tặng. Giải thưởng của Tựlực Văn đoàn vì vậy, đã danh giá, lại càng thêm danh giá hơn. Và cũng vì vậy giấc mộngvề một sự nghiệp văn chương danh giá – sự nghiệp ấy biết đâu, nếu không đoạt giải Nô-ben thì chí ít cũng đoạt giải thưởng Tự lực văn đoàn – càng nung nấu thôi thúc cháybỏng trong lòng các nhà văn trẻ thời bấy giờ. Ở đây, vai trò của báo chí, các tổ chức văn học, xuất bản, phát hành, kinh doanhsản phẩm văn học là rất quan trọng: vai trò tiếp thêm sức sống, làm nóng lên hay đểnguội đi dư luận về một hiện tượng, một tài năng văn học. Quá trình chuyên nghiệphóa sáng tác văn học tất nhiên phải tiến hành đồng thời với quá trình chuyên nghiệphóa các hoạt động hỗ trợ sáng tác nói trên. 3. Chuyên nghiệp hóa hoạt động sáng tác là một đòi hỏi tất yếu của công cuộchiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945. Đây là kết luận hoàn toàn có cơ sở của bài viết này. Theo đó, giữa yêu cầu chuyên nghiệp hóa hoạt động sáng tác văn học, đòi hỏinâng cao ý thức về nghề và khát vọng tạo được phong cách nghệ thuật cá nhân của nhàvăn với yêu cầu hiện đại hóa văn học, rõ ràng tồn tại một quan hệ điều kiện – kết quả.Không thể có một nền văn học hiện đại nếu hoạt động sáng tác văn học không đượcchuyên nghiệp hóa. Nhà văn hiện đại không thể tạo được cho mình một phong cáchnghệ thuật độc đáo hay cá tính sáng tạo mạnh mẽ nếu chỉ bằng lòng với những sáng tácmang tính chất nghiệp dư, hoặc thiếu đi một sự tự ý thức sâu sắc về nghề. Như thế, để có một nền văn học hiện đại phát triển, người ta không có cách nàokhác ngoài việc phải đẩy mạnh quá tr ình chuyên nghiệp hóa sáng tác và các hoạtđộng hỗ trợ sáng tác, đồng thời phải chấp nhận, phải quen dần quan niệm xem sảnphẩm của sáng tác vă n chương là một loại hàng hóa. Chuyên nghiệp hóa, đối với văn học Việt Nam trước 1945, hơn bao giờ hết, làmột đòi hỏi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
"Chuyên nghiệp hoá" hoạt động sáng tác: một đòi hỏi tất yếu của công cuộc_2 Chuyên nghiệp hoá hoạtđộng sáng tác: một đòi hỏi tất yếu của công cuộc Nhất Linh, Khái Hưng cùng một xu hướng tiểu thuyết, họ tâm đầu ý hợp đến mứcnhiều tác phẩm có thể đứng tên chung(15). Nhưng với tư cách là các tác giả chuyênnghiệp, không bằng lòng những gì đã có, hai ông luôn có những tìm tòi riêng mangphong cách cá nhân qua các sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết của mình. Chẳng hạn, viếttruyện ngắn, nếu Nhất Linh dường như “chỉ phản ánh tâm hồn mình, kể lể những bănkhoăn của mình, theo đuổi một giấc mộng của mình”(16), thì Khái Hưng, khác hẳn, ông“nhặt nhạnh chuyện người”(17), dùng tấm gương pha lê của tâm hồn mình để phản chiếuhình thái của cả một xã hội và tâm sự nhiều vẻ của người đời. Trong kĩ thuật truyệnngắn, Nhất Linh, với năng lực ưu trội trong việc đi sâu vào thế giới tinh thần cá nhân củacon người, thường nghiêng về những tìm tòi thể nghiệm miêu tả tâm lý, kĩ thuật phôdiễn tiếng nói nội tâm của nhân vật (ngay cả khi ông dùng đến các chất liệu kì ảo); KháiHưng, với năng lực ngữ cảm và các nhận xét tinh tế ít nhiều mang tính chất “siêu ngônngữ”(18), lại thường chú trọng đặc biệt đến ngôn ngữ đối thoại và luôn có ý thức miêu tảgiọng điệu, lời nói của các loại nhân vật, các hạng người trong xã hội. 2.3. Chuyên nghiệp hóa các hoạt động hỗ trợ sáng tác, tạo định hướng thưởngthức, và tổ chức tiêu thụ tác phẩm Thực tế hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX cho thấy xu hướngchuyên nghiệp hóa sáng tác chỉ thật sự được đẩy mạnh khi có đủ điều kiện và có đượcsự hỗ trợ của nhiều khâu hoạt động liên quan khác. Về điều kiện, sáng tác chuyên nghiệp cần hình thành nuôi dưỡng trong một bầusinh quyển mới. Đó là bầu sinh quyển thân thiện giữa người sáng tác – sở hữu tác phẩmvới người thưởng thức – tiêu thụ sản phẩm tinh thần thông qua ấn phẩm. Giờ đây, đốivới độc giả, hành vi thưởng thức cái đẹp văn chương gắn liền với hành vi tiêu thụ hànghóa. Mối quan hệ thân thiện, tốt đẹp giữa tác giả và công chúng tất nhiên sẽ tạo điềukiện thuận lợi cho sáng tác và tiếp nhận, thưởng thức và tiêu thụ văn học. Cũng vì thế,sáng tác chuyên nghiệp đòi hỏi một tinh thần cộng sinh, cộng cảm trong cộng đồng vănhọc mới. Sáng tác của các nhà văn chuyên nghiệp thế hệ 1932-1945 rõ ràng đã được nuôidưỡng trong một bầu sinh quyển thân thiện như thế. Những nhà văn chuyên nghiệp, nổitiếng, được công chúng bấy giờ hâm mộ viết truyện, làm thơ, soạn kịch đến đâu, tòa báocho đăng tải hoặc nhà xuất bản cho in đến đấy. Tên tuổi cứ thế mà tỏa sáng. Tác phẩmcủa họ được giới thiệu, quảng cáo, được đón đọc, được vinh danh. Không ít nhà văn thờiấy còn được nâng đỡ bởi các tổ chức văn học, các tờ báo, các nhà in, các bậc đàn anhtrong văn giới và cả các giải thưởng có uy tín. Hẳn nhiều người còn nhớ, trong nhữnglần Tự lực văn đoàn trao giải thưởng cho các tác giả, tác phẩm được giải, ngoài giấychứng nhận, tiền thưởng của ban tổ chức, còn có cả những khoản tiền không nhỏ do mộtcá nhân (hay một nhóm) độc giả nào đó nhờ ban tổ chức trao tặng. Giải thưởng của Tựlực Văn đoàn vì vậy, đã danh giá, lại càng thêm danh giá hơn. Và cũng vì vậy giấc mộngvề một sự nghiệp văn chương danh giá – sự nghiệp ấy biết đâu, nếu không đoạt giải Nô-ben thì chí ít cũng đoạt giải thưởng Tự lực văn đoàn – càng nung nấu thôi thúc cháybỏng trong lòng các nhà văn trẻ thời bấy giờ. Ở đây, vai trò của báo chí, các tổ chức văn học, xuất bản, phát hành, kinh doanhsản phẩm văn học là rất quan trọng: vai trò tiếp thêm sức sống, làm nóng lên hay đểnguội đi dư luận về một hiện tượng, một tài năng văn học. Quá trình chuyên nghiệphóa sáng tác văn học tất nhiên phải tiến hành đồng thời với quá trình chuyên nghiệphóa các hoạt động hỗ trợ sáng tác nói trên. 3. Chuyên nghiệp hóa hoạt động sáng tác là một đòi hỏi tất yếu của công cuộchiện đại hóa văn học Việt Nam trước 1945. Đây là kết luận hoàn toàn có cơ sở của bài viết này. Theo đó, giữa yêu cầu chuyên nghiệp hóa hoạt động sáng tác văn học, đòi hỏinâng cao ý thức về nghề và khát vọng tạo được phong cách nghệ thuật cá nhân của nhàvăn với yêu cầu hiện đại hóa văn học, rõ ràng tồn tại một quan hệ điều kiện – kết quả.Không thể có một nền văn học hiện đại nếu hoạt động sáng tác văn học không đượcchuyên nghiệp hóa. Nhà văn hiện đại không thể tạo được cho mình một phong cáchnghệ thuật độc đáo hay cá tính sáng tạo mạnh mẽ nếu chỉ bằng lòng với những sáng tácmang tính chất nghiệp dư, hoặc thiếu đi một sự tự ý thức sâu sắc về nghề. Như thế, để có một nền văn học hiện đại phát triển, người ta không có cách nàokhác ngoài việc phải đẩy mạnh quá tr ình chuyên nghiệp hóa sáng tác và các hoạtđộng hỗ trợ sáng tác, đồng thời phải chấp nhận, phải quen dần quan niệm xem sảnphẩm của sáng tác vă n chương là một loại hàng hóa. Chuyên nghiệp hóa, đối với văn học Việt Nam trước 1945, hơn bao giờ hết, làmột đòi hỏi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 3395 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 787 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 747 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 715 0 0 -
6 trang 609 0 0
-
2 trang 456 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 391 0 0 -
4 trang 366 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 310 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 242 0 0