Cơ thể phụ nữ mang thai thay đổi thế nào?Sau khi mang thai, cơ thể người phụ nữ có những biến đổi rõ rệt, nhất là tử cung. Trọng lượng: Trong quá trình mang thai, thông thường người phụ nữ tăng từ 8 kg đến 12 kg. Trọng lượng của người phụ nữ mang thai tăng bao gồm cả trọng lượng của thai nhi, nhau thai, nước ối, đồng thời mông, đùi, bụng của thai phụ cũng dày và to hơn, dung lượng máu và dịch trong cơ thể tăng hơn bình thường. Thể trọng tăng vừa phản ánh sự...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cơ thể phụ nữ mang thai thay đổi thế nào? Cơ thể phụ nữ mang thai thay đổi thế nào?Sau khi mang thai, cơ thể người phụ nữ có những biến đổi rõ rệt, nhất là tử cung.Trọng lượng: Trong quá trình mang thai, thông thường người phụ nữ tăng từ 8 kg đến12 kg. Trọng lượng của người phụ nữ mang thai tăng bao gồm cả trọng lượng của thainhi, nhau thai, nước ối, đồng thời mông, đùi, bụng của thai phụ cũng dày và to hơn, dunglượng máu và dịch trong cơ thể tăng hơn bình thường. Thể trọng tăng vừa phản ánh sựphát triển của thai nhi vừa phản ánh tình trạng dưỡng cơ thể mẹ. Nếu 3 tuần liên tiếp thểtrọng thai phụ không tăng hoặc mỗi tuần tăng quá 500g thì cần phải lưu ý.Tử cung: Sau khi mang thai, cơ thể người phụ nữ có những biến đổi rõ rệt, nhất là tửcung. Do thai nhi sinh trưởng, phát triển trong tử cung nên nhau thai và nước ối cũng tovà nhiều hơn, tử cung dần to hơn. Hình dạng của tử cung biến đổi từ hình quả lê đến hìnhtròn rồi hình bầu dục. Trọng lượng tử cung khi chưa mang thai là 50g tăng lên 1.000g khithai đủ tháng. Đến tuần thứ 20 đỉnh tử cung đã đến ngang tầm rốn, sau đó vẫn tiếp tụccao lên. Đỉnh tử cung nâng cao đã gián tiếp phản ánh sự phát triển của thai nhi, do đó mỗilần khám thai trước khi sinh thầy thuốc đều đo độ cao của đỉnh tử cung để xem xét sựphát triển của thai nhi.Hệ thống huyết quản: Dung lượng máu của phụ nữ mang thai bắt đầu từ đầu kì thai,giữa kì thai tăng nhanh nhất, sau tuần thứ 32 thì đạt đỉnh cao. Lượng máu cả kì thai có thểtăng 1.500 ml, trong đó huyết tương chiếm khoảng 70%, hồng cầu tăng 30%, do đó máukhá loãng, dễ bị thiếu máu. Dung lượng máu tăng nên tim phải co bóp nhiều, từ đó làmtăng gánh nặng cho tim, tim đập nhanh hơn, mỗi phút có thể tăng 10- 12 nhịp. Khi thai vào giai đoạn cuối do đường ruột và dạ dày bị tử cung chèn ép nên nhu động giảm, dễ bị đầy bụng hoặc táo bón.Hệ tiêu hóa: Mang thai ở thời kì đầu, một số thai phụ thường bị nôn, ợ, thèm những thứcăn lạ… Khi thai vào giai đoạn cuối do đường ruột và dạ dày bị tử cung chèn ép nên nhuđộng giảm, dễ bị đầy bụng hoặc táo bón.Hệ tiết niệu: Trong thời gian mang thai, thận phải bài tiết thêm những chất thải của thainhi nên cường độ hoạt động của thận tăng hơn, mặt khác tử cung do gây chèn ép ống dẫnniệu làm nhu động niệu giảm, nước tiểu đi ra chậm, dễ gây viêm nhiễm hệ tiết niệu. Phụnữ mang thai vào thời kì đầu và kì cuối do bàng quan bị ép, dẫn đến chứng đái dắt.Hô hấp: Do nhu cầu về ôxy của thai phụ tăng và lượng CO2 tiết ra nhiều làm tăng gánhnặng cho phổi, đồng thời tử cung lớn hơn vào cuối kì thai khiến cơ hoành cách mạc nângcao, hạn chế lượng hoạt động của phổi. Vì vậy, phụ nữ mang thai dễ bị thở gấp.Hệ thống nội tiết: Các tuyến nội tiết khắp cơ thể đều hoạt động mạnh, trao đổi chất tăngnhanh để thai phụ thích ứng với sự phát triển của thai nhi cũng như nhu cầu của bảnthân. Tỉ lệ trao đổi chất của thai phụ tăng lên cùng với kì thai, đến cuối kì thai có thể tăngkhoảng 10% so với đầu kì thai.Bộ ngực: Sau khi mang thai, tuyến sữa và tổ chức mỡ phát triển mạnh dưới tác động củanhững hormone có liên quan đến cơ thể, làm cho bầu vú to lên, chuẩn bị tốt cho việc tiếtsữa nuôi con sau khi sinh nở.Làn da: Trong thời gian mang thai, da thai phụ ra nhiều mồ hôi, sắc tố lắng đọng, trênmặt có thể xuất hiện vết nám, da thành bụng giãn rộng, tạo nhiều nếp nhăn, đồng thờivùng da ở núm vú và quầng vú có màu sẫm lại.