Danh mục

Cội nguồn văn hoá dân tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn _2

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 210.30 KB      Lượt xem: 2      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong "tấm thổ cẩm rực rỡ sắc màu" của nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, sáng tác của Cao Duy Sơn có một vẻ riêng, đẹp và hấp dẫn
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cội nguồn văn hoá dân tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn _2Cội nguồn văn hoá dântộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn Trong tấm thổ cẩm rực rỡ sắc màu của nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Namhiện đại, sáng tác của Cao Duy Sơn có một vẻ riêng, đẹp và hấp dẫn. Bước chân vào thếgiới nghệ thuật của anh, ta sẽ bắt gặp hồn dân tộc, bản sắc dân tộc người miền núi quanhững câu chuyện đầy tính nhân văn. Có lẽ đó là lí do chính giải thích vì sao anh lại códuyên với nhiều giải thưởng văn chương đến thế. Cầm bút hơn hai chục năm, anh đã cótrong tay những giải thưởng văn chương có giá trị: Giải A Văn học dân tộc thiểu số của HộiNhà văn Việt Nam năm 1993, Giải nhì Hội Hữu nghị văn hóa Việt - Nhật năm 1993 vớitiểu thuyếtNgười lang thang; Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1997 với tậptruyện Những chuyện ở lũng Cô Sầu; Giải B Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu sốViệt Nam năm 2003 với tập truyện Những đám mây hình người; Giải A của Hội Văn họcnghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2006 với tiểu thuyết Đàn trời. Và tập truyệnngắn Ngôi nhà xưa bên suối của anh nhận 2 giải thưởng lớn: Giải thưởng của Hội Nhà vănViệt Nam năm 2008, Giải thưởng văn học Đông Nam Á năm 2009. Cao Duy Sơn thuộc thế hệ thứ hai trong đội ngũ các nhà văn dân tộc thiểu số ViệtNam hiện đại. Anh viết chậm và kỹ, từ 1984 đến nay, anh mới chỉ trình làng 4 tập truyệnngắn và 4 cuốn tiểu thuyết, nhưng lạ là chỉ với ngần ấy thôi, anh đã được đánh giá là câybút tiêu biểu nhất của nền văn học dân tộc thiểu số hiện nay. Cao Duy Sơn là nhà văn ngườiTày, sinh ra và lớn lên ở quê ngoại - đất Trùng Khánh - Cao Bằng. Cuộc sống nghèo khó vànhững con người hiền lành, chân thật của quê hương đã trở thành một phần máu thịt củatâm hồn anh. Viết văn là cơ hội để Cao Duy Sơn bày tỏ tình yêu thiết tha của mình với quêmẹ thân thương. Viết như một sự trả nợ tình cảm. Viết là một cuộc viễn du về với cộinguồn(1). Để có thể khám phá vào tận bề sâu những vỉa tầng văn hóa của dân tộc mình,Cao Duy Sơn tâm niệm: Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài miền núi(2). Đó là định hướng rõnét cho con đường nghệ thuật của Cao Duy Sơn. Trong tác phẩm của anh, hiện lên bứctranh đời sống miền núi với đủ các gam màu sáng - tối, trắng - đen; với đủ các phận ngườigiàu - nghèo, tốt - xấu, hạnh phúc - bất hạnh; với đủ các âm điệu vui - buồn, yêu thương -giận hờn - tha thứ; với đủ cả nước mắt và tiếng cười, cả bình yên và bão tố, cả phong tục vàhủ tục... Nhưng dù viết về vấn đề gì, sáng tác của anh cũng đau đáu một tình yêu quê hươngxứ sở, một sự trân trọng với những giá trị văn hóa cội nguồn. Nhà văn yêu quý và tự hào biết bao nhiêu về truyền thống văn hóa quê hương và cóý thức tích lũy, khám phá để mã hóa những vỉa tầng văn hóa nguyên bản, hồn nhiên củangười dân tộc đưa vào những trang văn(3). Giọng văn trần thuật của Cao Duy Sơn thực sựreo vui khi kể về những phong tục tập quán đẹp của dân tộc mình. Đây là tục Khai vàixuân ngày mồng một tết. Bỏ lại tất cả mọi giận hờn, đố kỵ, ghen ghét, người đi Khai vàixuân mang đến cho các gia đình trong làng bản niềm hi vọng chứa chan vào một năm mớiăn nên làm ra, hạnh phúc đầy nhà qua tờ giấy đỏ được dán lên tường và những lời chúcphúc như có cánh: Bươn chiêng pi mấư khai vài xuân a... ngần sèn khảu tu nả à, mò mảkhảu tu lăng ơ... cần ké lục đếch khảu pi mấư à a... phù sần au khen slửa lòng dà... khảu,nặm, ngần sèn tim rườn la... cung hỷ phát sòi... (Tháng giêng năm mới đến khai xuân...chúc cho tiền bạc như nước chảy vào cửa trước, ngựa bò chen đầy cửa sau, trẻ già cùngbước vào năm mới, đều được tay áo thần tiên che chở..., gạo, nước, tiền, bạc đầy nhà... vuivẻ phát tài...)(4). Ở chỗ này, việc đưa lời chúc phúc bằng ngôn ngữ Tày vào tác phẩm thựcsự trở nên đắc địa. Nó góp phần tạo không khí cho truyện, khiến người đọc được nhập cảmsâu hơn vào đời sống văn hóa của dân tộc Tày. Cũng với giọng văn sảng khoái, tự hào đó,trong truyện ngắn Hòn bi đá màu trắng, người kể chuyện như say trong âm điệu mượt màcủa cây mã vĩ truyền thống và cùng với nó chuyện trò, tâm tình, kể lể về tình yêu, tìnhthương, về tráng chí nam nhi, về khát vọng sống và chiến đấu, về một thời hào hùng mà bithương của dân tộc: Khi thì dạo đầu của màn một vở tuồng Phạm Tải- Ngọc Hoa theođiệu Dá hai, thiết tha như mạch ngầm con nước thoát ra từ đỉnh Phja bjoóc tựa ngân vangtừ tầng trời. Lúc đắm đuối khổ đau đến ứa máu con tim của điệu lượn then kể về mối tình biai Nam Kim - Thị Đan, tích cổ người Tày. Nhưng hứng thú nhất vẫn là khúc rộn rã củakịch Mộc Tàu Hí, thuật tuồng hát minh họa bằng những con rối đầu gỗ có một không haiở đất Việt. Khi đó, người nghe như mẩn mê với âm thanh vang lừng của kiếm thần trongtay chàng mồ côi chém đứt bảy đầu rắn quỷ cứu muôn dân thoát khỏi lầm than. Rồi chuyệnkể về Cẩu chúa cheng vùa - chín chúa tranh vua trên đất Mục mã... Nhiều lắm!(5). Lời kểthấm đẫm một tình yêu, một niềm say mê tha thiết với vốn văn hóa cổ của dân tộc mình. Cảmột thời lịch sử xa xưa như cùng hội tụ về đây trong điệu Dá hai, điệu lượn then, rồi thuậttuồng hát minh họa bằng những con rối đầu gỗ... đã làm rung động và say đắm lòng người. Ở một truyện ngắn khác, Cao Duy Sơn nói về Chợ tình, một phiên chợ đặc biệt chỉcó ở vùng cao. Chợ tình miền núi một năm chỉ họp một ngày.Với những đôi lứa lỡ làng thìđây là ngày ngắn nhất trong năm nhưng cũng là ngày hạnh phúc nhất trong năm. Gặp lạingười xưa chỉ trong một thời gian ngắn ngủi để trang trải món nợ tình cảm mang nhiều vịcay đắng của cuộc đời mình rồi lại đằng đẵng một năm dài sống với những bổn phận vàràng buộc không thể phá bỏ. Chợ tình vùng cao quả là một phong tục đẹp, thấm đẫm tínhnhân văn bởi nó đã gạt bỏ được tất cả những tị hiềm, ganh ghét, thù oán chỉ còn lòng trảivới lòng. Biết bao tự hào, trìu mến, thân thương khi tác giả viết những dòng này: Chợ ởđây không ồn ào như chợ phiên phố chợ, không tranh mua, tranh bán, không đuổi đánhnhau vì ghen hay thù oán. Đến đây mọi bực dọc đều đã ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: