Danh mục

Con đường hiện đại hoá văn học của các nước khu vực văn hoá chữ Hán (Qua

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 238.99 KB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Khu vực văn hoá chữ Hán gồm 4 nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam được hình thành từ hơn 2000 năm trước cùng với sự bùng nổ của nền văn hoá Hán - một đế chế hùng mạnh nhất thế giới bấy giờ. Có thể gọi khu vực này là “Khu vực văn hoá Đông Á”, nhưng gọi như vậy thì không ít người băn khoăn khi đưa Việt Nam vào
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Con đường hiện đại hoá văn học của các nước khu vực văn hoá chữ Hán (Qua Con đường hiện đại hoá văn họccủa các nước khu vực văn hoá chữHán (Qua tư liệu văn học Việt Nam và Nhật Bản) Khu vực văn hoá chữ Hán gồm 4 nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Namđược hình thành từ hơn 2000 năm trước cùng với sự bùng nổ của nền văn hoá Hán - một đế chếhùng mạnh nhất thế giới bấy giờ. Có thể gọi khu vực này là “Khu vực văn hoá Đông Á”, nhưnggọi như vậy thì không ít người băn khoăn khi đưa Việt Nam vào. Thực ra khái niệm Khu vựcvăn hoá Đông Á bao hàm ý nghĩa văn hoá, và như vậy thì đồng nghĩa với khái niệm “Khu vựcvăn hoá chữ Hán”, mà lại không đồng nghĩa với khu vực Đông Bắc Á, một cách gọi thiên về ýnghĩa địa - chính trị(1). Từ giữa thế kỷ XIX các nước trong khu vực lần lượt bị xâm lược bởi các nước đế quốcphương Tây: Năm 1842 Chiến tranh nha phiến nổ ra báo hiệu cuộc xâm lăng chính thức của phươngTây vào Trung Hoa, năm 1853 “Hắc thuyền” của Mỹ xuất hiện ở cửa biển Uraga đòi Mạc phủTokugawa phải mở cửa, năm 1858 chiến hạm Pháp và Tây Ban Nha tấn công các đồn lũy ở bán đảoSơn Trà mở màn cho cuộc xâm lược của thực dân Pháp vào nước Đại Nam. Lịch sử cận đại bắt đầutừ đó và kết thúc vào 1945 hoặc sau một chút. Quá trình hiện đại hoá văn học đi cùng với lịch sử cậnđại. Có thể dùng là “Cận đại hoá” như một số người dùng, nhưng do những đặc điểm chung của khuvực: sự chuyển biến sang mô hình hiện đại có sự đứt gẫy chứ không phải là quá trình tiệm tiến, nênquá trình đó thường được gọi là “Hiện đại hoá” với ý nghĩa thời hiện đại có nhiều giai đoạn hiện đạihoá khác nhau, mà “Cận đại hoá” chỉ là giai đoạn thứ nhất. Con đường hiện đại hoá văn học của các nước khu vực văn hoá chữ Hán là một conđường quanh co, gấp khúc, không đồng đều, nhiều quá trình đan xen lẫn nhau, bị quy định bởiđiều kiện lịch sử và đặc tính dân tộc. Xin thử phác hoạ một vài nét chính dưới đây. 1. Hiện đại hoá văn học bắt đầu từ nhu cầu duy tân đất nước Hiện đại hoá văn học Khu vực văn hoá chữ Hán không phải là quá trình tiệm tiến, hìnhthành từ những yếu tố nội sinh của từng nền văn học dân tộc. Mặc dù nhu cầu đổi mới văn họcđã có từ giai đoạn Hậu kỳ trung đại, nhưng thời đại mới trong văn học vẫn chưa thể bắt đầu nếucác nước trong khu vực không bị buộc phải mở cửa trước cuộc xâm lăng của các nước phươngTây. Sự thất bại của nho sĩ và võ sĩ đã đưa các nước đến với tư tưởng duy tân. Văn học cận đạigắn liền với công cuộc duy tân đất nước và giành độc lập của các nước Đông Á. Phong trào duytân bắt đầu từ việc nhìn ra thế giới mà tâm điểm là phương Tây. Có ba hiện tượng văn học giống nhau ở hai nước, đó là sự xuất hiện của các du ký, sựbùng nổ của văn học dịch và sự ra đời của văn học duy tân - khải mông chủ nghĩa. Đây là thời đại người ta đi và đi: đi ra khỏi nhà mình, ra khỏi làng mình và ra khỏi nướcmình. Vì thế du ký là thể loại phát triển rất mạnh: Otsuki Tsunesuke/ Đại Quy Hằng (1818-1857) viết Viễn Tây Kỷ Lược, Kitagawa Naokai/ Bắc Xuyên TrựcPhụ viết Mễ Lợi Kiên (America) Độ Hải Nhật Ký, v.v... Nổi tiếng nhất là hai cuốn:Dưỡngtiểu thuyết hoạt kê Tây dương đạo trung tất lật mao (Seiyô dôchù hizakurige/ Vóngựa trên đường sang Tây) của Kanagaki Robun, miêu tả những điều mắt thấy tai nghe về cuộcđấu xảo Luân Đôn và cuốn ghi chép Tây Dương sự tình của nhà cải cách vĩ đại FukuzawaYukichi (1834-1901). Ở Việt Nam cũng tương tự: Khởi đầu là các du ký của các nhà văn – quan đại thần khi đicông cán phương Tây mà tiêu biểu nhất là cuốn Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ viết năm1863. Từ phía các nhà văn cộng tác với Pháp có: Trương Vĩnh Ký với Chuyến đi Bắc Kỳ năm ẤtHợi (1876), Trương Minh Ký với Như Tây nhựt trình (1889), Chư quốc thại hội(1891) đều làcác du ký bằng thơ song thất lục bát ghi chép về những điều mắt thấy tai nghe trên đường ra Bắcvà trong các chuyến đi công cán sang Pháp. Công việc này còn kéo dài và nở rộ vào đầu thế kỷXX với những tác phẩm của Phan Bội Châu, Trần Chánh Chiếu… Văn học mở cánh cửa ra thế giới, trong các loại du ký đó thì du ký chính trị có vai tròquan trọng nhất vì ở đó nhà văn nói chuyện về văn minh Âu Tây để thấy cái lạc hậu, cái hèn kémcủa nước nhà. Dịch thuật rất được coi trọng. Việc dịch thuật sớm nhất, nhiều nhất và tự do nhất là ở NhậtBản, khởi đầu bằng các sách của các trí thức Tây học có tính chất khai sáng: Tây quốc lập chíbiên của Samuel Smiles (học giả người Anh) do, Tự do chi lýcủa John Stuart Mill (triết gia ngườiAnh) do Nakamura Masanao dịch (1870 và 1871); Dân ước luận của Rousseaux, Hattori Tokudịch 1877. Ở Việt Nam thì người Pháp cho phép dịch các loại sách trừ loại sách nói về tự do, dânquyền. Cho nên nếu như Dân ước của J.J. Rousseaux được dịch ở Nhật từ 1877 thì đến gần 50năm sau mới được dịch một cách bán công khai ở Việt Nam. Có thể nói với các nhà văn có xuhướng duy t ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: