Bài viết "Công cụ thuế, phí trong thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn ở Trung Quốc" nghiên cứu quá trình thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Trung Quốc cũng như phân tích các công cụ thuế, phí mà quốc gia này áp dụng, đối chiếu với thực tiễn ở Việt Nam, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị với công cụ thuế, phí để phù hợp với quá trình hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Công cụ thuế, phí trong thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn ở Trung Quốc
CÔNG CỤ THUẾ, PHÍ TRONG THÚC ĐẨY NỀN KINH TẾ TUẦN HOÀN
Ở TRUNG QUỐC
Đỗ Thị Thanh Ngà, Nguyễn Thế Thông
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
Tóm tắt
Quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, lấy sản xuất công
nghiệp, dựa vào đầu tư và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên làm hướng đi cho
nền kinh tế khiến cho Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức về ô nhiễm
môi trường và kéo theo nhiều hệ lụy đối với tự nhiên (hiện tượng sa mạc hóa, cạn
kiệt nguồn nước, suy thoái và mất đa dạng sinh học). Trước những áp lực đó, kinh
tế tuần hoàn (KTTH) nổi lên như một công cụ hữu hiệu, đem lại những hiệu quả tích
cực đối với tiến trình phát triển bền vững của quốc gia này. Chính phủ Trung Quốc
đã xây dựng và ban hành những chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy, khuyến khích
tổ chức, cá nhân triển khai, áp dụng KTTH, một trong số đó là các chính sách áp
dụng công cụ thuế, phí. Dựa trên kết quả rà soát, nghiên cứu quá trình thực hiện
KTTH ở Trung Quốc cũng như phân tích các công cụ thuế, phí mà quốc gia này áp
dụng, đối chiếu với thực tiễn ở Việt Nam, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị với
công cụ thuế, phí để phù hợp với quá trình hiện thực hóa KTTH ở Việt Nam.
Từ khóa: Trung Quốc, kinh tế tuần hoàn, thuế, phí
1. Mở đầu
Kể từ khi cải cách và mở cửa, nền kinh tế của Trung Quốc đã phát triển nhanh
chóng, GDP tăng lên đáng kể. Với phương thức kinh tế tăng trưởng theo chiều
rộng, lấy sản xuất công nghiệp, dựa vào đầu tư và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên
nhiên dẫn đến xuất hiện các mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Lượng tài nguyên sử dụng trên đầu người tăng, hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp
trong khi nhu cầu sử dụng tài nguyên ngày càng cao, quản lý môi trường còn chưa
đạt hiệu quả, kèm với đó là tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng,
đặc biệt là môi trường không khí1, hiện tượng sa mạc hóa xảy ra, cạn kiệt nguồn
nước, suy thoái và mất đa dạng sinh học2 gây ra thiệt hại lớn về kinh tế. Trước áp
1
Li, W. and W. Lin, Circular economy policies in China. Towards a Circular Economy: Corporate Management and
Policy Pathways, 2016: p. 95-111.
2
Su, B., et al., A review of the circular economy in China: moving from rhetoric to implementation. Journal of cleaner
production, 2013. 42: p. 215-227.
106 |
lực khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm môi trường, thiệt hại về kinh tế, Trung Quốc
buộc phải thay đổi phương thức phát triển kinh tế tuyến tính truyền thống. Kinh tế
tuần hoàn như một mô hình phát triển kinh tế mới, giúp Trung Quốc có thể giảm
tiêu thụ năng lượng, giảm phát thải, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, giải
quyết được các mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Đây được
coi là một mô hình phát triển mới giúp Trung Quốc nhanh chóng tiến đến một nền
kinh tế bền vững1.
Tại Việt Nam, sau khi KTTH được luật hóa tại Luật Bảo vệ môi trường năm
2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, các nhà hoạch định chính sách đang nỗ lực
nghiên cứu các giải pháp phù hợp nhằm triển khai, áp dụng KTTH trong thực tiễn.
Cơ chế khuyến khích thực hiện KTTH được quy định tại khoản 8 Điều 140 Nghị
định số 08/2022/NĐ-CP, trong đó vai trò của công cụ thuế, phí trong quá trình thực
hiện KTTH được quy định thông qua các loại hình dự án đầu tư bảo vệ môi trường
như thu gom, xử lý, tái chế chất thải, sản xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo…
Hiện nay, Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 tại Việt Nam đang trong quá trình
cập nhật và sửa đổi, các quy định về KTTH có hiệu lực năm 2020 và mức độ tăng
trưởng kinh tế - xã hội trong 01 thập kỷ sẽ không còn phù hợp với các quy định tại
Luật ban hành năm 2010. Do đó, việc xác định, nhận diện rõ vai trò của công cụ
thuế, phí và tìm ra giải pháp hướng tới mục tiêu hiện thực hóa KTTH thông qua học
tập các kinh nghiệm tại một quốc gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam như
Trung Quốc là vô cùng cần thiết.
2. Khái quát về quá trình phát triển kinh tế tuần hoàn ở Trung Quốc
Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là thuật ngữ được các học giả Trung Quốc đề xuất
vào năm 1998, đến năm 2002, thuật ngữ này được Cục Bảo vệ Môi trường Quốc gia
của Trung Quốc phê duyệt với các hướng dẫn cụ thể về cách triển khai, kế hoạch, cách
thức vận hành và lựa chọn là chính sách quốc gia cho phát triển bền vững2,3.
Năm 2004, Hội đồng Nhà nước đã chỉ định ủy ban Cải cách và phát triển quốc
gia tiếp quản việc thực hiện và thúc đẩy KTTH. Năm 2005, Học viện Kỹ thuật Trung
Quốc nghiên cứu về phát triển KTTH trong quá trình đô thị hóa bằng các mô hình
thí điểm tại 56 doanh nghiệp, 13 khu công nghiệp, 7 tỉnh, 5 thành phố và 1 thị trấn.
Đến năm 2007, danh sách các mô hình thí điểm mở rộng thêm 178 doanh nghiệp.
Ngày 29 tháng 8 năm 2008, Luật KTTH ở Trung Quốc đã được thông qua trong
1, 2
Su, B., et al., A review of the circular economy in China: moving from rhetoric to implementation. Journal of
cleaner production, 2013. 42: p. 215-227.
3
Yuan, Z., J. Bi, and Y. Moriguichi, The circular economy: A new development strategy in China. Journal of Industrial
Ecology, 2006. 10(1‐2): p. 4-8.
| 107
cuộc họp Ủy ban thường vụ của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 và có hiệu lực
vào năm 20091.
KTTH là trọng tâm của Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 (2006-2010) và Kế hoạch
5 năm lần thứ 12 (2011-2015) của Trung Quốc. Mục tiêu chính của Luật KTTH ở
Trung Quốc là nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và tách rời mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên2. Nền KTTH ở
Trung Quốc được phát triển qua 4 giai đoạn. Giai đoạn 1 (trước năm 1992), tập trung
vào việc tận dụng toàn diện nguồn lực. Mục đích chính của giai ...