Danh mục

CÔNG NGHỆ ASDL2 VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CHƯƠNG 1

Số trang: 17      Loại file: pdf      Dung lượng: 382.96 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

1.1.1 Mạng PSTN Sau hơn 120 năm sau khi máy điện thoại được phát minh, mạng điện thoại đã được triển khai rộng khắp trên toàn thế giới. Nhu cầu của con người là không có giới hạn
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÔNG NGHỆ ASDL2 VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CHƯƠNG 1 ĐỒ ÁN HỆ THỐNG MẠNG Đề tài: CÔNG NGHỆ ASDL2 VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CHƯƠNG I MẠNG VIỄN THÔNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MẠNG TRUY NHẬP1.1 Mạng PSTN và NGN1.1.1 Mạng PSTN Sau hơn 120 năm sau khi máy điện thoại được phát minh, mạng điện thoại đãđược triển khai rộng khắp trên toàn thế giới. Nhu cầu của con người là không cógiới hạn và do đó các nhà cung cấp dịch vụ phải không ngừng phát triển dịch vụcũng như cơ sở hạ tầng viễn thông để đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu củakhách hàng. Các công ty điện thoại đã có một khối lượng đầu tư khổng lồ vàomạng điện thoại. Ban đầu, các thiết kế chủ yếu được tính toán dành cho dịch vụthoại. Nhưng trong thời gian gần đây, cùng với sự bùng nổ của Internet trên toàncầu rất nhiều dịch vụ mới đã ra đời. Các dịch vụ này nói chung là có yêu cầu về độrộng băng tần ngày càng lớn và không đối xứng. Do đó nó yêu cầu một cơ sở hạtầng phải được nâng cấp và hiện đại hoá để có thể cung cấp được các dịch vụ nàytới mọi khách hàng ở mọi nơi, mọi lúc. Hình 1.1 dưới đây mô tả một mạng viễ nthông điện thoại điển hình. Trong mạng này, các thiết bị thuê bao được kết nối tới các tổng đài nội hạtthông qua một mạch vòng đường dây thuê bao. Nó được kết cuối tới tổng đài tạ igiá phối dây chính MDF. Các tổng đài được kết nối với nhau qua mạng liên đài(Inter-CO network). Với các tiến bộ của công nghệ truyền dẫn quang SDH, hầunhư các mạng liên đài đã được quang hoá toàn diện và đã đả m bảo đáp ứng đượcnhu cầu cung cấp các dịch vụ tốc độ cao cho các thuê bao. Nó có thể đảm bảo phụcvụ cho tốc độ số liệu đường trục lên tới hàng chục Gbít. Trong mạng này, các thiết bị thuê bao được kết nối tới các tổng đài nội hạtthông qua một mạch vòng đường dây thuê bao. Nó được kết cuối tới tổng đài tạ igiá phối dây chính MDF. Các tổng đài được kết nối với nhau qua mạng liên đài(Inter-CO network). Với các tiến bộ của công nghệ truyền dẫn quang SDH, hầunhư các mạng liên đài đã được quang hoá toàn diện và đã đả m bảo đáp ứng đượcnhu cầu cung cấp các dịch vụ tốc độ cao cho các thuê bao. Nó có thể đảm bảo phụcvụ cho tốc độ số liệu đường trục lên tới hàng chục Gbít. Mạng truy nhập Mạng cung cấp các dịch vụ CO DLC Các mạng cung cấp dịch vụ Inter-CO CO Network CO Hệ thống DLC Hệ thống Chuyển mạch thoại truyền MDF dẫn Hình 1.1 Mô hình mạng viễn thông hiện đại Tuy nhiên, khi nhìn ở góc độ mạng truy nhập vấn đề lại hoàn toàn khác. Hiệ nnay có trên một tỷ đường dây thuê bao trong mạng điện thoại PSTN trên toàn thếgiới. Trong đó, hơn 95% là cáp xoắn đôi dành cho dịch vụ thoại thuần tuý vàchiế m một tỷ lệ lớn trong vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng của các nhà cung cấp dịchvụ. Nhưng hệ thống này lại có một số hạn chế làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năngcung cấp các dịch vụ truyền số liệu-là các nhu cầu gần như thiết yếu hiện nay.1.1.2 NGN Khái niệm mạng thế hệ sau NGN được xuất hiện vào cuối những năm 90 đểđối mặt với một số vấn đề nổi lên trong viễn thông được đặc tính hóa bởi rất nhiềunhân tố: mở cửa cạnh tranh giữa các nhà khai thác trên toàn cầu trên cơ sở bãi bỏnhững quy định lạc hậu về thị trường, khai thác lưu lượng dữ liệu được sử dụngtrong Internet, nhu cầu mạnh mẽ của khách hàng về các dịch vụ đa phương tiện,cùng với sự gia tăng nhu cầu của người sử dụng di động. Nó là khái niệm mớiđược các nhà thiết kế mạng sử dụng cho việc minh họa quan điểm của họ đối vớimạng viễn thông trong tương lai. Tại thời điểm đầu tiên trong chu kỳ nghiên cứu trong năm 2000, khái niệmNGN vẫn còn rất mờ nhạt và tại hội nghị về IP Network and mediacom năm 2001tại Geneva đã có một phiên họp dành riêng cho việc chuyển dịch đến NGN. Cácquan điểm khác nhau về NGN đã được trình bầy và tại buổi hội thảo cuối cùng đãphát hiện ra rằng rất khó đạt được sự hiểu biết thống nhất về NGN. Trong phiên họp của nhóm nghiên cứu SG 13 tại Caracas trong vòng mộttháng, các vấn đề về NGN đã được thảo luận trở lại. Rất nhiều vấn đề đã được giả iquyết nhưng một câu hỏi nổi bật đã mở ra cơ hội cho nhóm nghiên cứu SG, cơ hộ ihợp tác với những hoạt động của ITU (Hiệp hội viễn thông quốc tế) trong khuônkhổ dự án mới của ITU. Nhưng do một số vấn đề chưa đạt đến độ ch ...

Tài liệu được xem nhiều: