Thông tin tài liệu:
Thuốc uống : - Mắt :Vi tích tụ giác mạc, hầu như luôn gặp, thường giới hạn đến vùng dưới đồng tử và không cần thiết ngưng điều trị, hiếm khi có kèm theo quầng màu khi ra sáng hoặc cảm giác chói mắt khi ra ánh sáng. Vi tích tụ giác mạc có khả năng hồi phục sau khi ngưng điều trị. Một vài trường hợp viêm thần kinh thị giác đã được ghi nhận. Hiện nay, mối liên hệ với amiodarone vẫn còn chưa được xác lập một cách chắc chắn. Nếu có giảm thị lực hoặc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CORDARONE (Kỳ 4) CORDARONE (Kỳ 4) Thuốc uống : - Mắt : Vi tích tụ giác mạc, hầu như luôn gặp, thường giới hạn đến vùng dưới đồngtử và không cần thiết ngưng điều trị, hiếm khi có kèm theo quầng màu khi ra sánghoặc cảm giác chói mắt khi ra ánh sáng. Vi tích tụ giác mạc có khả năng hồi phụcsau khi ngưng điều trị. Một vài trường hợp viêm thần kinh thị giác đã được ghi nhận. Hiện nay,mối liên hệ với amiodarone vẫn còn chưa được xác lập một cách chắc chắn. Nếucó giảm thị lực hoặc nhìn mờ, phải đi khám mắt ngay. - Da : Nhạy cảm ánh sáng : phải báo cho bệnh nhân biết để tránh tiếp xúc với ánhsáng mặt trời (và với các tia cực tím) trong thời gian điều trị. Có thể có ban đỏ datrong thời gian điều trị bằng quang tuyến. Nổi mẫn da, thường ít đặc hiệu gồm cả các trường hợp hiếm gặp như viêmda tróc vảy đã được ghi nhận nhưng chưa được xác nhận một cách chắn chắn vềmối quan hệ với thuốc. Các đám sắc tố da màu xám hay hơi xanh có thể xảy ra nếu điều trị kéo dàivới liều cao hàng ngày, các đám sắc tố này sẽ biến mất chậm sau khi ngưng điềutrị. - Tuyến giáp : Thay đổi các chỉ số sinh hóa đơn thuần mà không có các biểu hiện lâm sàngcủa rối loạn chức năng tuyến giáp thì thường gặp (tăng nồng độ T4, T3 bìnhthường hay giảm nhẹ). Trong những trường hợp như thế không cần thiết phảingưng điều trị. Nhược giáp : chẩn đoán có được khi nồng độ TSHu tăng lên rõ rệt. Chứcnăng tuyến giáp trở lại bình thường sau 1-3 tháng ngưng điều trị. Trong nhữngtrường hợp đe dọa đến tính mạng, vẫn có thể tiếp tục điều trị với amiodarone bằngcách sử dụng thêm L-Thyroxine. Liều L-Thyroxine sử dụng sẽ được hướng dẫnbởi nồng độ TSH. Cường giáp chẩn đoán có được khi nồng độ TSHu giảm rõ rệt. Phải ngưng điều trịamiodarone. Sự hồi phục trên lâm sàng xảy ra sau 3-4 tuần ngưng điều trị. Nhữngtrường hợp nặng đôi khi có thể gây tử vong cần phải được điều trị khẩn cấp. Việc điều trị này phải thay đổi theo từng bệnh nhân : các thuốc chống tuyếngiáp (có thể không phải luôn có hiệu quả), liệu pháp corticoide, thuốc ức chếbêta... Các dấu hiệu lâm sàng sau đây, thường nhẹ và gợi ý đến chẩn đoán nhượcgiáp hay cường giáp : - tăng cân, giảm khả năng hoạt động, nhịp tim chậm quá mức có liên quanđến tác dụng của amiodarone trong trường hợp nhược giáp. - sút cân, loạn nhịp cấp, đau ngực, suy tim ứ huyết trong trường hợp cườnggiáp Bệnh nhân phải được theo dõi trong nhiều tháng sau khi ngưng điều trị.Cần đo nồng độ TSHu trong trường hợp nghi ngờ có rối loạn chức năng tuyếngiáp. Những bệnh nhân có nguy cơ rối loạn chức năng tuyến giáp cao (tiền căncá nhân hay gia đình rối loạn chức năng tuyến giáp) phải được kiểm tra chức năngtuyến giáp đều đặn. - Phổi : Các trường hợp độc tính phổi (viêm phổi mẫn cảm, viêm phế nang/mô kẽ,xơ phổi, viêm màng phổi, viêm tiểu phế quản phá hủy toàn bộ cấu trúc phổi/Boop), đôi khi dẫn đến tử vong đã được ghi nhận. Thực hiện việc kiểm tra X quang ở những bệnh nhân khó thở tiến triển (lúcgắng sức) hoặc đơn thuần hoặc phối hợp với sự suy giảm sức khỏe toàn thân khác(mệt mỏi, sụt cân, sốt). Các rối loạn về phổi nói chung thường hồi phục sau khi ngưng sớm việcđiều trị. Có thể phải cân nhắc đến corticoide liệu pháp. Các dấu hiệu lâm sàngthường hồi phục sau 3-4 tuần, sự cải thiện hình ảnh X quang và chức năng phổixảy ra chậm hơn (nhiều tháng). Một ít trường hợp có hội chứng nguy ngập hô hấp cấp ở người lớn, đôi khicó thể gây tử vong cũng đã được ghi nhận, hầu hết thường xảy ra ngay sau phẫuthuật (có thể liên quan đến tương tác với nồng độ oxy cao). ...