Danh mục

Cù lao

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 212.62 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tác phẩm Cù lao của nhà văn trẻ Phan Danh Hiếu ở Biên Hoà, Đồng Nai đã đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ số xuân 2007 và được bình chọn là 1 trong 10 truyện ngắn trẻ hay nhất năm 2006. Nghĩa thầy trò, tình cảm sâu nặng đối với mảnh đất mình đang sống đã giúp Phan Danh Hiếu dựng nên một tác phẩm xúc động và day dứt lòng người đọc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cù lao Cù lao TRUYỆN NGẮN CỦA PHAN DANH HIẾUTác phẩm Cù lao của nhà văn trẻ Phan Danh Hiếu ở Biên Hoà, Đồng Nai đã đăng trênbáo Văn Nghệ Trẻ số xuân 2007 và được bình chọn là 1 trong 10 truyện ngắn trẻ hay nhấtnăm 2006. Nghĩa thầy trò, tình cảm sâu nặng đối với mảnh đất mình đang sống đã giúpPhan Danh Hiếu dựng nên một tác phẩm xúc động và day dứt lòng người đọc.Làng nằm trên một cù lao nhỏ, như một đám bèo nổi trên sông. Bốn bề nước bao vây,mùa nắng hay mùa mưa cũng bềnh bồng sóng lớn. Người sống chung với nước lóp ngópnhư chuột lội, tội tình như vậy đã mấy chục năm trời. Làng không có tên trong bản đồ địaphương, không trạm xá, không trường học... người bám vào sông mà sống, sông thươngngười nên cũng lắm cá tôm.Lần đầu tiên tôi thấy thầy. Người gầy nhỏ, áo màu xanh lá cây. Một bên chân bị cụt cócái ống quần xắn lên lủng lẳng dưới đôi nạng gỗ đã láng bóng mồ hôi. Khuôn mặt thầykhắc khổ, duy chỉ có đôi mắt là long lanh như những niềm vui trìu mến.Thầy đến từ bên kia sông, vào một trưa nắng rát mặt. Khó khăn lắm thầy mới bước rakhỏi chiếc thuyền nan. Đất cù lao nhão nhoẹt bùn. Đôi nạng gỗ lún sâu không nhấc lênnổi. Thầy ngã nhào xuống, tội nghiệp như một con chim trúng tên. Trên bờ, hai ba chụcđứa trẻ dắt dìu bồng bế nhau ra xem kẻ lạ mặt.Tôi bước xuống triền bờ, cát dưới chân lún sâu hoăm hoắm. Một tay cầm lấy chiếc nạnggỗ, tay kia tôi quàng tay thầy vào cổ mình. Thầy nhìn tôi - cái nhìn làm tôi thấy lòngmình ấm lên như có lửa. Tôi dìu thầy lên bờ. Cảm giác được giúp đỡ một người làm tôicũng thấy vui vui.Thầy nhoẻn cười chào mọi người, thân thiện. Không một nụ cười đáp lại, không một ánhmắt cảm thông, không một cái nhìn thiện cảm. Người lớn lại trở về với công việc. Bọn trẻgiương những cặp ngây thơ mà dõi theo bóng người đàn ông đang cố lê thân mình trênđôi nạng gỗ. Thầy đi vào làng, cô độc với nụ cười thừa thãi.Suốt liền hơn một tháng, thầy cứ hằng ngày lại qua cái cù lao nhỏ bé này. Bọn trẻ bắt đầucảm thấy quen quen người đàn ông này. Chúng bị hút lấy bởi nụ cười hiền lành mà ấm ápcủa thầy. Một công việc quá xa lạ với những người dân chài vốn quen với sông nước. Cáitừ “đi học” sao mà khó hình dung đến thế. Nó vừa trừu tượng vừa xa lạ nhưng cũng lạivừa quyến rũ.Đi đến đâu thầy cũng gặp những câu hỏi (đại loại như là học để làm gì? Có mất tiền bạckhông? Mà nếu học thì thời gian đâu bọn trẻ giúp đỡ gia đình?). Những câu hỏi làm đaulòng những đứa trẻ đang dần dần biết háo hức ở người đàn ông này. Chắc chúng (trongđó có tôi) lờ mờ hình dung được một cái gì đó hình như là những niềm vui đang chào đónchúng ở cái thế giới bên kia (bên bờ sông đối diện với cù lao - chúng tôi vẫn thường nghengười lớn nói với nhau như thế). Chúng chờ đợi ở người cha những cái gật đầu. Và khinhìn thấy những cái lắc đầu, chúng tiu nghỉu, hết hy vọng.Nhưng rồi chúng tôi cũng được đi học, tổng cộng được bảy đứa, lớn tồng ngồng nhưnhững cây sào. Đó là kết quả của hơn một tháng trời thầy lặn lội từ bên kia sông sang cùlao này để vận động từng gia đình cho lũ trẻ được đi học. Tôi còn nhớ như in buổi sánghôm đó. Lần đầu tiên chúng tôi đặt chân lên mảnh đất bên này sông (bây giờ tôi gọi nónhư thế), xa lạ và lạc lõng. Những con đường làng đất đỏ phẳng lì và mát rượi. Nhữnglũy tre xanh đến nao lòng. Những mái nhà có ngói đỏ tươi và giàu có. Tất cả đều xa lạ,cái xa lạ làm những kẻ vốn dạn với sông nước bỗng đâm ra lo sợ vẩn vơ. Bầy chó tronglàng nhác thấy người lạ xô ra sủa ran làm inh ỏi cả một vùng. Trường hiện ra trước mắtchúng tôi cao ráo và sạch sẽ. Lớp cũng khá đông, cũng lớn tồng ngồng như chúng tôi. Thìra chúng cũng như chúng tôi, đều được thầy nhặt về đây và dạy dỗ.Năm ấy tôi mười hai tuổi, con nhà sông nước, lại khá giả hơn bọn trẻ cùng trang lứa nêntôi trông phổng phao hơn. Tôi bơi cả ngày không thấy mỏi, lặn sâu dưới nước cả mấyphút không hề biết hết hơi. Đó là kết quả của những lần theo cha đánh cá, của những lầnchết giả vì ngộp nước. Nhưng học chữ sao mà khó thế. Đã nhiều lần tôi cáu bẳn, nhữngngón tay cầm bút cứng queo, ngọ ngoạy đáng ghét. Chữ lệch lên, xiên xuống còng quèonhư nhánh cây cảnh bị người ta uốn cong làm dáng. Tôi nản, các bạn tôi cũng vậy.Thầy đến, nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi, đưa tay tôi tới lui, rồi chữ hiện ra thẳng đều và đẹp.Thầy nói: “Cuộc sống không có gì là khó khăn, có chăng là con người không biết tậndụng cơ hội để hoàn thiện mình. Vậy thì em hãy bắt đầu chính mình từ những con chữnày”. Tôi nghe mơ hồ nhưng thấy yêu cuộc sống và những con chữ, những bài học củathầy quá. Mỗi lần giải sai một bài toán hay viết sai lỗi chính tả hoặc có những bài thuộclòng tôi chưa kịp học vì thức quá khuya để vá lưới cho cha, thầy đều ân cần giúp tôi sửalại cho đúng. Tôi lớn lên từ đó, biết yêu cánh cò trong ca dao, biết yêu dân tộc mình từ bờtre, gốc lúa, con sông...Cha không muốn tôi học mãi (vì tôi đi học thì không có ai phụ cha đi sông, cũng có nghĩalà sẽ mất đi một lao động). Tôi biết điều đó. Từ ngày má mất, cha buồn buồn, không nóinăng. Hai cha con cứ lênh đênh hết khúc sông này đến khúc sông nọ. Có khi xuôi ra biểncả tuần. Nhìn cha già trước tuổi, gò má nhăn nheo, đôi mắt lúc nào cũng quanh quánhbuồn như sông mùa hạn. Đêm ấy cha ngồi bên tôi, lặng thinh đến não nuột. Chừng nhưđịnh nói điều gì lại thôi. Ông cầm lấy cái điếu tre rít xéo xèo, khói thuốc bay ngập cảkhuôn mặt buồn buồn. Và cha thở dài, tiếng thở dài trượt ra khỏi bờ môi khô ráp, nứt nẻphả vào tim tôi đau nhói.Sông vào mùa hạn. Nước róc ròng ngầu đục. Hai bên bờ bùn sánh đặc quẹo. Người lội rachỗ có nước, bùn ngập đến nửa ống quyển. Nắng thì nung nước nóng ran. Mùa này tômcá thưa dần. Cha và vài người nữa đi biển, nghe chừng lần này đi cả tháng. Tôi sướngrơn. Chiều ấy tôi theo thầy leo lên ngọn đồi Câm. Chỗ này hoang vắng dễ sợ. Lác đác cónhững nấm mồ nhỏ xíu nằm sát bên những bụi cây lúp xúp. Cỏ may bám đầy chúng tôi,đâm vào thịt ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: