Cú sốc vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 và 'căn bệnh Hà Lan' đối với nền kinh tế Việt Nam
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 297.94 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này phân tích tác động của cú sốc vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 đối với nền kinh tế Việt Nam. Kết quả phân tích cho thấy lượng ngoại tệ vào Việt Nam gia tăng đột biến đã gây ra “Căn bệnh Hà Lan” đối với nền kinh tế Việt Nam: Tăng tỷ giá thực, thay đổi cơ cấu kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cú sốc vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 và “căn bệnh Hà Lan” đối với nền kinh tế Việt Nam HỘI THẢO NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG CÚ SỐC VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI GIAI ĐOẠN 2006-2010 VÀ “CĂN BỆNH HÀ LAN” ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Thủy và TS. Nguyễn Trung Kiên Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Vốn đầu tư nước ngoài được đánh giá là nguồn lực quan trọng đối với việc phát triển kinh tế ở các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Tuy vậy vốn đầu tư nước ngoài vẫn có thể mang lại tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Bài viết này phân tích tác động của cú sốc vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 đối với nền kinh tế Việt Nam. Kết quả phân tích cho thấy lượng ngoại tệ vào Việt Nam gia tăng đột biến đã gây ra “Căn bệnh Hà Lan” đối với nền kinh tế Việt Nam: tăng tỷ giá thực, thay đổi cơ cấu kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu. Nghiên cứu đồng thời đề xuất các hàm ý cho việc quản lý điều hành của Chính phủ.1. Giới thiệu Trong năm 2007 và đầu năm 2008, lượng ngoại tệ từ đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam cósự gia tăng đột biến. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng từ khoảng 4 tỷ lên 8 tỷ trong năm2007 và lên 11,5 tỷ năm 2008. Sau đó, lượng vốn FDI thực hiện khoảng trên 10 tỷ/năm. Vốn đầu tưgián tiếp từ nước ngoài (FII) ước tính trong năm 2007 là 5,7 tỷ USD (theo báo cáo của ngân hàngANZ) trong khi tổng vốn đầu tư gián tiếp cả giai đoạn 2001 đến 2006 là 12 tỷ. Sự gia tăng củadòng vốn đầu tư nước ngoài thường được nhìn nhận có tác động tích cực cho nền kinh tế, chẳnghạn nguồn vốn bổ sung, nguồn chuyển giao công nghệ, tạo việc làm và thu nhập. Tuy nhiên, cácnghiên cứu cũng tìm thấy các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế của một quốc gia khi có lượngngoại tệ gia tăng đột ngột, được gọi tên là “Căn bệnh Hà Lan”. Vậy lượng ngoại tệ vào Việt Namgia tăng đột biến có gây ra “Căn bệnh Hà Lan” đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này? Dựa vào trải nghiệm của Hà Lan vào những năm 1960, các học thuyết về Căn bệnh Hà Lan“Dutch disease” được xây dựng vào đầu những năm 1980 (Corden and Neary, 1982). Căn bệnhHà Lan đề cập đến tác động của việc phát hiện nguồn tài nguyên hoặc giá tài nguyên thiên nhiêngia tăng đột biến dẫn đến tăng tỷ giá thực, phân bổ lại hoạt động sản xuất, giảm công nghiệp hóa(“de-industrialization”) nền kinh tế và giảm xuất khẩu. Quá trình tác động này cũng xảy ra tương tựkhi có sự gia tăng đột biến đầu tư nước ngoài, trợ cấp hoặc chuyển tiền. Việc phát hiện nguồn tàinguyên/tăng giá tài nguyên hay dòng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng đột ngột đều có điểm chung làtạo ra cú sốc về dòng ngoại tệ vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Tác động đầu tiên trong Căn bệnh Hà Lan là tăng cung ngoại tệ dẫn đến đồng nội tệ tăng giátrị thực. Dòng tiền gia tăng đồng thời dẫn đến nhu cầu các sản phẩm thương mại và sản phẩm phithương mại (bao gồm cả dịch vụ) gia tăng. Nếu là nền kinh tế có qui mô nhỏ (ví dụ như ViệtNam) giá cả của sản phẩm thương mại được quyết định bởi thị trường thế giới trong khi các sảnphẩm phi thương mại được quyết định bởi thị trường trong nước. Kết quả là giá cả hàng hóa phithương mại tăng lên tương đối so với hàng hóa thương mại. Vì vậy có sự gia tăng mạnh hoạt độngđầu tư ở lĩnh vực sản xuất sản phẩm phi thương mại. Đầu tư gia tăng khiến cho chi phí đầu vàocũng gia tăng (như nhân công). Do giá cả cả sản phẩm thương mại được quyết định bởi thị trườngthế giới nên lợi nhuận trong lĩnh vực sản phẩm thương mại giảm sút và vì vậy hoạt động đầu tư đểsản xuất các sản phẩm thương mại giảm. Cùng với đồng nội tệ tăng giá, hoạt động xuất khẩu sẽgiảm xuống. Do vậy, Căn bệnh Hà Lan tác động đến việc “phân bổ lại hoạt động sản xuất”, kìmhãm quá trình công nghiệp hóa “ giảm công nghiệp hóa” và giảm xuất khẩu. 415 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Vậy những hiện tượng này có xảy ra với nền kinh tế Việt Nam và đã xảy ra như thế nào cầnđược phân tích và đánh giá nhằm đưa ra các hàm ý chính sách. Trước tiên, bài viết trình bày sựgia tăng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ năm 2006, đặc biệt là sự gia tăng đột ngột tronghai năm 2007 và 2008. Dựa vào đó, bài viết sẽ phân tích tác động của luồng vốn đầu tư nước ngoàiđến thay đổi của tỷ giá thực, đến sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế, và đến hoạt động xuất khẩu ròng.Kết thúc bài viết là phần kết luận và hàm ý chính sách cho việc điều hành của Chính phủ.2. Tình hình vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2007-2008 Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2006 trở thành động lựcthúc đẩy mạnh mẽ dòng vốn đầu tư nước ngoài. Lượng vốn đăng ký và ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cú sốc vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 và “căn bệnh Hà Lan” đối với nền kinh tế Việt Nam HỘI THẢO NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG CÚ SỐC VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI GIAI ĐOẠN 2006-2010 VÀ “CĂN BỆNH HÀ LAN” ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Thủy và TS. Nguyễn Trung Kiên Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Vốn đầu tư nước ngoài được đánh giá là nguồn lực quan trọng đối với việc phát triển kinh tế ở các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Tuy vậy vốn đầu tư nước ngoài vẫn có thể mang lại tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Bài viết này phân tích tác động của cú sốc vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 đối với nền kinh tế Việt Nam. Kết quả phân tích cho thấy lượng ngoại tệ vào Việt Nam gia tăng đột biến đã gây ra “Căn bệnh Hà Lan” đối với nền kinh tế Việt Nam: tăng tỷ giá thực, thay đổi cơ cấu kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu. Nghiên cứu đồng thời đề xuất các hàm ý cho việc quản lý điều hành của Chính phủ.1. Giới thiệu Trong năm 2007 và đầu năm 2008, lượng ngoại tệ từ đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam cósự gia tăng đột biến. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng từ khoảng 4 tỷ lên 8 tỷ trong năm2007 và lên 11,5 tỷ năm 2008. Sau đó, lượng vốn FDI thực hiện khoảng trên 10 tỷ/năm. Vốn đầu tưgián tiếp từ nước ngoài (FII) ước tính trong năm 2007 là 5,7 tỷ USD (theo báo cáo của ngân hàngANZ) trong khi tổng vốn đầu tư gián tiếp cả giai đoạn 2001 đến 2006 là 12 tỷ. Sự gia tăng củadòng vốn đầu tư nước ngoài thường được nhìn nhận có tác động tích cực cho nền kinh tế, chẳnghạn nguồn vốn bổ sung, nguồn chuyển giao công nghệ, tạo việc làm và thu nhập. Tuy nhiên, cácnghiên cứu cũng tìm thấy các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế của một quốc gia khi có lượngngoại tệ gia tăng đột ngột, được gọi tên là “Căn bệnh Hà Lan”. Vậy lượng ngoại tệ vào Việt Namgia tăng đột biến có gây ra “Căn bệnh Hà Lan” đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này? Dựa vào trải nghiệm của Hà Lan vào những năm 1960, các học thuyết về Căn bệnh Hà Lan“Dutch disease” được xây dựng vào đầu những năm 1980 (Corden and Neary, 1982). Căn bệnhHà Lan đề cập đến tác động của việc phát hiện nguồn tài nguyên hoặc giá tài nguyên thiên nhiêngia tăng đột biến dẫn đến tăng tỷ giá thực, phân bổ lại hoạt động sản xuất, giảm công nghiệp hóa(“de-industrialization”) nền kinh tế và giảm xuất khẩu. Quá trình tác động này cũng xảy ra tương tựkhi có sự gia tăng đột biến đầu tư nước ngoài, trợ cấp hoặc chuyển tiền. Việc phát hiện nguồn tàinguyên/tăng giá tài nguyên hay dòng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng đột ngột đều có điểm chung làtạo ra cú sốc về dòng ngoại tệ vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Tác động đầu tiên trong Căn bệnh Hà Lan là tăng cung ngoại tệ dẫn đến đồng nội tệ tăng giátrị thực. Dòng tiền gia tăng đồng thời dẫn đến nhu cầu các sản phẩm thương mại và sản phẩm phithương mại (bao gồm cả dịch vụ) gia tăng. Nếu là nền kinh tế có qui mô nhỏ (ví dụ như ViệtNam) giá cả của sản phẩm thương mại được quyết định bởi thị trường thế giới trong khi các sảnphẩm phi thương mại được quyết định bởi thị trường trong nước. Kết quả là giá cả hàng hóa phithương mại tăng lên tương đối so với hàng hóa thương mại. Vì vậy có sự gia tăng mạnh hoạt độngđầu tư ở lĩnh vực sản xuất sản phẩm phi thương mại. Đầu tư gia tăng khiến cho chi phí đầu vàocũng gia tăng (như nhân công). Do giá cả cả sản phẩm thương mại được quyết định bởi thị trườngthế giới nên lợi nhuận trong lĩnh vực sản phẩm thương mại giảm sút và vì vậy hoạt động đầu tư đểsản xuất các sản phẩm thương mại giảm. Cùng với đồng nội tệ tăng giá, hoạt động xuất khẩu sẽgiảm xuống. Do vậy, Căn bệnh Hà Lan tác động đến việc “phân bổ lại hoạt động sản xuất”, kìmhãm quá trình công nghiệp hóa “ giảm công nghiệp hóa” và giảm xuất khẩu. 415 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Vậy những hiện tượng này có xảy ra với nền kinh tế Việt Nam và đã xảy ra như thế nào cầnđược phân tích và đánh giá nhằm đưa ra các hàm ý chính sách. Trước tiên, bài viết trình bày sựgia tăng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ năm 2006, đặc biệt là sự gia tăng đột ngột tronghai năm 2007 và 2008. Dựa vào đó, bài viết sẽ phân tích tác động của luồng vốn đầu tư nước ngoàiđến thay đổi của tỷ giá thực, đến sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế, và đến hoạt động xuất khẩu ròng.Kết thúc bài viết là phần kết luận và hàm ý chính sách cho việc điều hành của Chính phủ.2. Tình hình vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2007-2008 Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2006 trở thành động lựcthúc đẩy mạnh mẽ dòng vốn đầu tư nước ngoài. Lượng vốn đăng ký và ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Cơ cấu kinh tế Dịch chuyển cơ cấu kinh tế Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa Chiến lược FDIGợi ý tài liệu liên quan:
-
13 trang 191 0 0
-
5 trang 159 0 0
-
24 trang 149 0 0
-
32 trang 148 0 0
-
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế vùng Đông Nam bộ
8 trang 138 0 0 -
Tái cơ cấu kinh tế - lý luận và thực tiễn
8 trang 130 0 0 -
Mối quan hệ giữa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngoại thương tại Việt Nam
19 trang 121 0 0 -
7 trang 118 0 0
-
Báo cáo tiểu luận đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam: Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
48 trang 117 0 0 -
Quyết định số 1567/QĐ-BKHĐT
4 trang 116 0 0