Danh mục

'Cưới vợ trả của' - tập tục lâu đời của đồng bào Stiêng, Bình Phước

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 253.38 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Người Stiêng lưu truyền những giá trị văn hóa, quan hệ ứng xử trong đời sống thường ngày mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có tục “cưới vợ trả của”.Người STiêng có quan niệm, việc cưới không phải là việc riêng của gia chủ, mà cũng là niềm vui và trách nhiệm của cộng đồng, buôn, sóc. Ảnh minh họa Trong số các dân tộc anh em cùng sinh sống tại tỉnh Bình Phước, người STiêng chiếm số đông và có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa. Người STiêng có ngôn ngữ, tiếng nói và chữ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
“Cưới vợ trả của” - tập tục lâu đời của đồng bào Stiêng, Bình Phước“Cưới vợ trả của” - tập tục lâu đời của đồng bào Stiêng, Bình PhướcNgười Stiêng lưu truyền những giá trị văn hóa, quan hệ ứng xử trong đời sốngthường ngày mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có tục “cưới vợ trả của”. Người STiêng có quan niệm, việc cướikhông phải là việc riêng của gia chủ, mà cũng là niềm vui và trách nhiệm của cộngđồng, buôn, sóc. Ảnh minh họaTrong số các dân tộc anh em cùng sinh sống tại tỉnh Bình Phước, người STiêngchiếm số đông và có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa. Người STiêng có ngônngữ, tiếng nói và chữ viết riêng; họ cũng lưu truyền những giá trị văn hóa, quan hệứng xử trong đời sống thường ngày mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có tục“cưới vợ trả của”.Cũng giống như người Kinh, nghi thức đầu tiên trong đám cưới của người STiênglà “lễ hỏi”. Trong lễ hỏi, nhà trai cử hai người làm mai mối (gọi là Đhran) sang nhàgái hỏi cưới. Trong đám hỏi, khi ông mai dừng lời hát, nhà trai, nhà gái, già làngvà ông mai cùng kích năng (thách cưới). Đây là một tục lệ cổ truyền đã có từ lâuđời và đến nay vẫn còn duy trì, dù rằng đã có những thay đổi đáng kể. Số lễ vậtthách cưới mà nhà gái đưa ra thường tương đương với giá trị mà ngày trước cha côgái phải bỏ ra để cưới mẹ cô gái. Trước mặt già làng, hai bên gia đình và bà controng sóc tham dự, cha cô gái đếm 30 que tượng trưng cho 30 cái tố nhất, 2 quetượng trưng cho tố ghi, 5 que tượng trưng cho 5 tố con rồng, 2 que tượng trưng cho2 slung, 1 que tượng trưng cho 1 con bò và 2 que tượng trưng cho 2 con trâu, số lễvật này lần lượt được trao cho ông mai. Và trước mặt mọi người, ông mai trao lạicho cha của chàng trai.Thông thường thì nhà trai phải chấp nhận bất cứ yêu cầu nào của nhà gái đưa ra.Cha của chàng trai hoàn toàn chấp nhận yêu cầu cảu nhà gái và sau nhiều hồi bànbạc cả hai gia đình đã thống nhất những điều kiện của nhau như bắt vợ sau khicưới, hay gia đình nhà gái có việc gì cần giúp đỡ thì chàng rể phải sang làm… Saukhi định ngày cưới, hai người mai mối thông báo với nhà gái và được nhà gái đồngý bẻ cây thách cưới, gọi là tục kích năng.Bản chất của “tục kích năng” chính là hình thức “cưới vợ trả của”. Cha cô gái bẻnhững cây que đưa cho người làm mai đếm, để biết nhà gái thách cưới bao nhiêucon trâu, bò, heo, tố (bình, vại) rượu? Nhà trai buộc phải chấp nhận yêu cầu củanhà gái, nếu không đáp ứng được thì bắt ở rể trả nợ. Sau khi thống nhất, nhà traimang đầy đủ sính lễ tiến hành lễ cưới. Khi hai họ, đôi trai gái và người làm maingồi trước tố rượu cúng thần linh, cũng là lúc người nhà gái làm thịt trâu, heo,gà… thết đãi hai họ và bà con trong buôn,sóc.Khi có điều kiện để trả đủ số lễ vật cho nhà gái thì được đưa cô dâu về nhà traihoặc ra ở riêng, nếu chưa trả được thì phải ở rể cho nhà gái đến khi trả hết nợ.Ngày nay vợ chồng có thể ra ở riêng và trả nợ cho cha mẹ vợ sau. Sau ngày cướiđôi vợ chồng trẻ bước vào cuộc sống mới với gia đình, dòng họ và cộng đồng…Người STiêng có quan niệm, việc cưới không phải là việc riêng của gia chủ, màcũng là niềm vui và trách nhiệm của cộng đồng, buôn, sóc. Vì vậy, mỗi khi có đámcưới họ cùng nhau chuẩn bị lễ vật, thức ăn, chia sẻ công việc với gia chủ và saysưa tham dự lễ. Bên cạnh đó, họ còn tồn tại “tục nối dây”: Nếu vợ chết, ngườichồng có thể lấy em gái vợ; anh trai chết, em trai có thể lấy chị dâu (nếu được emgái, chị dâu chấp thuận).

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: