Đa dạng sinh học và nguồn lợi rong biển Việt Nam
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 392.13 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết nghiên cứu thành phần loài, phân bố, mùa vụ của một số loài rong thường gặp ở vùng biển Việt Nam nhằm đánh giá đúng hiện trạng, trữ lượng, khả năng khai thác và kế hoạch sử dụng nguồn lợi rong biển là rất cần thiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đa dạng sinh học và nguồn lợi rong biển Việt Nam Diễn đàn Khoa học và Công nghệ Đa dạng sinh học và nguồn lợi rong biển Việt Nam Đàm Đức Tiến Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam Với nguồn rong biển tự nhiên phong phú và bước đầu chủ động đầu tư phát triển nuôi trồng rong biển, đến nay lĩnh vực này ở nước ta đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, song so với tiềm năng thì vẫn còn hạn chế. Sắp tới, chúng ta cần tăng cường đầu tư nguồn lực phát triển một số nhóm/ loài có giá trị kinh tế cao phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, trong đó tập trung vào các nhóm/ loài sinh sản hữu tính, dễ thu hoạch và bảo quản như: rong Giấy (Monostroma), rong Cải biển (Ulva), rong Chủn (Grateloupia)…, chú trọng đầu tư công nghệ phục vụ bảo quản, chế biến nhằm nâng cao giá trị của nguồn lợi này trong tương lai. Mở đầu rong biển cũng là nguồn lợi có thể tái nguồn lợi: chi Gracilaria (Gracilaria tạo nên hầu hết các quốc gia có biển tenuistipitata - rong Câu chỉ vàng, Rong biển là nhóm thực vật bậc đều quan tâm bảo tồn và phát triển Gracilariopsis bailinea - rong Câu thấp sống trong thủy vực nước mặn nguồn lợi rong biển. cước), chi Sargassum (Sargasuum), và nước lợ tại các vùng ven biển, cửa Châu Á - Thái Bình Dương chiếm chi Ulva (Ulva lactuca, Ulva sông và các đảo xa bờ. Đây là một khoảng 80% sản lượng rong biển của conglobata), còn lại các loài khác hầu trong những nguồn tài nguyên quan thế giới và ngành công nghiệp rong như bị bỏ quên. Trừ một số loài có trọng của kinh tế biển vì ngoài giá trị biển ước tính đạt khoảng 1 tỷ USD, thể nuôi trồng; các loài có sản lượng sử dụng trực tiếp làm nguyên liệu để nhu cầu về rong biển tăng 10%/năm. tự nhiên, bị bỏ hoang hoặc khai thác tách chiết được nhiều loại chất, hợp Trái với ngành sản xuất rong biển, bừa bãi dẫn tới nguy cơ cạn kiệt (chủ chất như agar, alginate, carrageenan… 90% sản phẩm keo rong biển lại được yếu là các loài rong Mơ). Mặt khác, phục vụ các ngành công nghiệp: thực sản xuất ở các nước phương Tây, mặc dù đây là nguồn tài nguyên rất phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm..., rong tiếp đến là Nhật Bản, Hàn Quốc. Với quan trọng nhưng các công trình biển có thể hấp thụ nhanh các chất ô nghiên cứu về rong biển, sử dụng nhiễm, góp phần cải tạo môi trường chiều dài bờ biển hơn 3.200 km, trải dài trên nhiều vĩ độ nên Việt Nam có nguồn lợi này còn khá hạn chế, nên nước biển phục vụ du lịch, nuôi trồng rất khó khăn trong việc khai thác, bảo các loài hải sản. Bên cạnh là nơi đẻ sự đa dạng sinh học, một số nhóm/ loài rong biển có trữ lượng lớn đã và vệ và phát triển giá trị nguồn lợi. Sắp trứng, nuôi dưỡng bảo vệ ấu trùng, tới, việc nghiên cứu đầy đủ, có hệ con non của rất nhiều các loài hải đang được khai thác và đưa vào sử dụng như nguồn nguyên liệu quan thống thành phần loài, phân bố, mùa sản…, các thảm rong biển còn có giá vụ của một số loài rong thường gặp ở trị sử dụng gián tiếp như hấp thụ CO2 trọng. Tính đến nay, đã ghi nhận được 827 loài rong biển, không kể một số vùng biển Việt Nam nhằm đánh giá dư thừa làm giảm hiệu ứng nhà kính đúng hiện trạng, trữ lượng, khả năng và biến đổi khí hậu, cùng với san hô loài mới được bổ sung. Trong đó có khoảng 150 loài được xem là có giá khai thác và kế hoạch sử dụng nguồn và trùng lỗ góp phần hình thành các lợi rong biển là rất cần thiết. rạn và bảo vệ nền đáy trước tác động trị kinh tế. của bão lũ, sóng, dòng chảy ven bờ…, Hiện các nhóm/loài đang được Đa dạng loà ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đa dạng sinh học và nguồn lợi rong biển Việt Nam Diễn đàn Khoa học và Công nghệ Đa dạng sinh học và nguồn lợi rong biển Việt Nam Đàm Đức Tiến Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam Với nguồn rong biển tự nhiên phong phú và bước đầu chủ động đầu tư phát triển nuôi trồng rong biển, đến nay lĩnh vực này ở nước ta đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, song so với tiềm năng thì vẫn còn hạn chế. Sắp tới, chúng ta cần tăng cường đầu tư nguồn lực phát triển một số nhóm/ loài có giá trị kinh tế cao phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, trong đó tập trung vào các nhóm/ loài sinh sản hữu tính, dễ thu hoạch và bảo quản như: rong Giấy (Monostroma), rong Cải biển (Ulva), rong Chủn (Grateloupia)…, chú trọng đầu tư công nghệ phục vụ bảo quản, chế biến nhằm nâng cao giá trị của nguồn lợi này trong tương lai. Mở đầu rong biển cũng là nguồn lợi có thể tái nguồn lợi: chi Gracilaria (Gracilaria tạo nên hầu hết các quốc gia có biển tenuistipitata - rong Câu chỉ vàng, Rong biển là nhóm thực vật bậc đều quan tâm bảo tồn và phát triển Gracilariopsis bailinea - rong Câu thấp sống trong thủy vực nước mặn nguồn lợi rong biển. cước), chi Sargassum (Sargasuum), và nước lợ tại các vùng ven biển, cửa Châu Á - Thái Bình Dương chiếm chi Ulva (Ulva lactuca, Ulva sông và các đảo xa bờ. Đây là một khoảng 80% sản lượng rong biển của conglobata), còn lại các loài khác hầu trong những nguồn tài nguyên quan thế giới và ngành công nghiệp rong như bị bỏ quên. Trừ một số loài có trọng của kinh tế biển vì ngoài giá trị biển ước tính đạt khoảng 1 tỷ USD, thể nuôi trồng; các loài có sản lượng sử dụng trực tiếp làm nguyên liệu để nhu cầu về rong biển tăng 10%/năm. tự nhiên, bị bỏ hoang hoặc khai thác tách chiết được nhiều loại chất, hợp Trái với ngành sản xuất rong biển, bừa bãi dẫn tới nguy cơ cạn kiệt (chủ chất như agar, alginate, carrageenan… 90% sản phẩm keo rong biển lại được yếu là các loài rong Mơ). Mặt khác, phục vụ các ngành công nghiệp: thực sản xuất ở các nước phương Tây, mặc dù đây là nguồn tài nguyên rất phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm..., rong tiếp đến là Nhật Bản, Hàn Quốc. Với quan trọng nhưng các công trình biển có thể hấp thụ nhanh các chất ô nghiên cứu về rong biển, sử dụng nhiễm, góp phần cải tạo môi trường chiều dài bờ biển hơn 3.200 km, trải dài trên nhiều vĩ độ nên Việt Nam có nguồn lợi này còn khá hạn chế, nên nước biển phục vụ du lịch, nuôi trồng rất khó khăn trong việc khai thác, bảo các loài hải sản. Bên cạnh là nơi đẻ sự đa dạng sinh học, một số nhóm/ loài rong biển có trữ lượng lớn đã và vệ và phát triển giá trị nguồn lợi. Sắp trứng, nuôi dưỡng bảo vệ ấu trùng, tới, việc nghiên cứu đầy đủ, có hệ con non của rất nhiều các loài hải đang được khai thác và đưa vào sử dụng như nguồn nguyên liệu quan thống thành phần loài, phân bố, mùa sản…, các thảm rong biển còn có giá vụ của một số loài rong thường gặp ở trị sử dụng gián tiếp như hấp thụ CO2 trọng. Tính đến nay, đã ghi nhận được 827 loài rong biển, không kể một số vùng biển Việt Nam nhằm đánh giá dư thừa làm giảm hiệu ứng nhà kính đúng hiện trạng, trữ lượng, khả năng và biến đổi khí hậu, cùng với san hô loài mới được bổ sung. Trong đó có khoảng 150 loài được xem là có giá khai thác và kế hoạch sử dụng nguồn và trùng lỗ góp phần hình thành các lợi rong biển là rất cần thiết. rạn và bảo vệ nền đáy trước tác động trị kinh tế. của bão lũ, sóng, dòng chảy ven bờ…, Hiện các nhóm/loài đang được Đa dạng loà ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đa dạng sinh học Nguồn lợi rong biển Việt Nam Bảo quản rong biển Thu hoạch rong biển Nhóm thực vật bậc thấpGợi ý tài liệu liên quan:
-
149 trang 244 0 0
-
14 trang 148 0 0
-
Tiểu luận 'Tài nguyên thiên nhiên- hiện trạng và giải pháp'
30 trang 85 0 0 -
Bài thuyết trình Tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý nghề cá ven bờ
34 trang 81 0 0 -
Giáo trình Hệ sinh thái rừng nhiệt đới: Phần 1
128 trang 76 0 0 -
Thực vật dân tộc học: một bài học cho thế hệ tương lai Việt Nam
5 trang 73 1 0 -
Thực trạng sử dụng và quản lý đất bãi bồi ven biển tỉnh Bến Tre
12 trang 69 0 0 -
Đa dạng nguồn lợi thủy sản trong hệ sinh thái rừng ngập mặn: Phần 1
168 trang 45 0 0 -
386 trang 44 2 0
-
Báo cáo: Giá trị đa dạng sinh học ở Việt Nam
30 trang 44 0 0