Thông tin tài liệu:
Đặc trưng tiếng Nhật và tương quan Hán - Việt / Hán - Nhật Truyền thuyết về sự du nhập chữ Hán vào Nhật Hán tự truyền sang Nhật theo ngả Triều Tiên vào khoảng đầu thế kỷ III. Theo truyền thuyết, về sau có một người tên là Ngạc (Wani) từ một nước cổ Kudara (giữa biển Nhật Bản, gần phía Đông của Triều Tiên) đến Nhật, mang theo Luận Ngữ (Rongo) và Thiên Tự Văn (Senjimon). Đó là lần đầu tiên Hán tự truyền vào Nhật (gọi là Kanji). Nhưng mãi đến thế kỷ IV và V thì...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đặc trưng tiếng Nhật và tương quan Hán - Việt / Hán
Đặc trưng tiếng Nhật và tương quan Hán - Việt / Hán - Nhật
Truyền thuyết về sự du nhập chữ Hán vào Nhật
Hán tự truyền sang Nhật theo ngả Triều Tiên vào khoảng đầu thế kỷ III. Theo truyền thuyết, về
鱷
sau có một người tên là Ngạc (Wani) từ một nước cổ Kudara (giữa biển Nhật Bản, gần phía
論
語
千
字
文
Đông của Triều Tiên) đến Nhật, mang theo Luận Ngữ (Rongo) và Thiên Tự Văn
(Senjimon). Đó là lần đầu tiên Hán tự truyền vào Nhật (gọi là Kanji). Nhưng mãi đến thế kỷ IV và V
thì Hán tự mới thực sự du nhập vào Nhật nhờ sự buôn bán theo đường biển giữa Nhật và Triều
Tiên.
Từ văn nói tới văn viết
Nhật ngữ cổ đại chỉ là khẩu ngữ (văn nói). Những thông tin truyền đi do những người tên gọi là
語
部
kataribe (ngữ bộ). Họ đi khắp nơi, kể chuyện và truyền đạt các tin quan trọng. Con cháu của
người Triều Tiên định cư tại Nhật làm công việc biên chép công văn giấy tờ. Họ chuyển khẩu ngữ
大
和
言
葉
cổ của Nhật (gọi là Đại Hòa ngôn diệp: Yamatokotoba ) sang Hán tự. Đây là lần đầu tiên
Nhật có bút ngữ (văn viết). Họ chuyển âm của Đại Hòa ngôn diệp sang các âm Hán tự tương
đương mà không quan tâm đến ý nghĩa. Hệ phiên âm này gọi là Man’yōgana (Vạn Diệp giả danh
萬
葉
假
名
假
假
借
). Chữ giả ở đây không phải là giả hiệu mà nghĩa là giả tá (vay mượn). Ý nói
Nhật ngữ cổ đại không có chữ viết, phải vay mượn các nét bút của chữ Hán để ghi lại lời nói. Chính
萬
葉
hệ thống văn tự này được dùng để ghi chép các thi văn cổ của Nhật trong bộ Vạn Diệp Tập
集
仁
德
(Man’yōshū). Tuyển tập này cũng bao gồm các bài thơ của Nhân Đức thiên hoàng
淳
仁
Nintoku (313-399) và các bài khác được viết dưới thời Thuần Nhân thiên hoàng Junnin
(758-764).
Nguồn gốc Hiragana và Katakana
平
假
名
Để viết chữ thuận tiện hơn, Vạn Diệp giả danh được giản hóa thành Hiragana (Bình giả
片
假
名
平
danh) và Katakana (Phiến giả danh). Ngay tên gọi đã gợi ra ý nghĩa, chữ bình (hira)
片
ngụ ý dễ dàng tiện lợi, và chữ phiến (kata) ngụ ý bất toàn. Cho nên Phiến giả danh là Vạn Diệp
giả danh chưa hoàn chỉnh. Cả hai Hiragana và Katakana đã trải qua nhiều lần chỉnh lý mới được
陳
哲
燦
吉
備
真
備
chuẩn mực như hiện nay. Trần Triết Xán viết rằng: Cát Bị Chân Bị tạo Phiến giả
空
海
danh (Katakana) từ chữ Khải 楷 và nhà sư Không Hải tạo Bình giả danh (Hiragana) từ chữ
草
Thảo . Cả hai đều là người Nhật, du học Trung Quốc vào đời Đường (618-907). (Trần Triết Xán,
Trung Hoa Văn Hóa, tập 4, Đài Bắc, 1991, tr. 4)
平
...