Tên gọi:Vị thuốc Đại hoàng còn gọi Hoàng lương (Bản Kinh), Tướng quân (Lý Thị Dược Lục), Hỏa sâm, Phu như (Ngô Phổ bản thảo), Phá môn, Vô thanh hổ, Cẩm trang hoàng (Hòa Hán Dược Khảo), Thiệt ngưu đại hoàng (Bản Thảo Cương Mục), Cẩm văn, Sanh quân, Đản kết, Sanh cẩm văn, Chế quân, Xuyênquân, Chế cẩm văn, Sanh đại hoàng, Xuyên văn, Xuyên cẩm văn, Tửu chế quân, Thượng quản quân, Cẩm văn đại hoàng, Thượng tướng quân, Tây khai phiến, Thượng tương hoàng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐẠI HOÀNG (Kỳ 1) ĐẠI HOÀNG (Kỳ 1) Tên gọi: Vị thuốc Đại hoàng còn gọi Hoàng lương (Bản Kinh), Tướng quân (LýThị Dược Lục), Hỏa sâm, Phu như (Ngô Phổ bản thảo), Phá môn, Vô thanh hổ,Cẩm trang hoàng (Hòa Hán Dược Khảo), Thiệt ngưu đại hoàng (Bản ThảoCương Mục), Cẩm văn, Sanh quân, Đản kết, Sanh cẩm văn, Chế quân, Xuy ênquân, Chế cẩm văn, Sanh đại hoàng, Xuyên văn, Xuyên cẩm văn, Tửu chếquân, Thượng quản quân, Cẩm văn đại hoàng, Thượng tướng quân, Tây khaiphiến, Thượng tương hoàng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Tác dụng: + Đãng địch trường vị, khứ hủ sinh tân,. thôn g lợi thủ y cốc, đìều trung,hóa thực; an hòa ngũ tạng (Bản Kinh). + Luyện ngũ tạng, thông kinh, lợi thủy thũng, phá đàm thực, lãnh nhiệttích tụ, súc thực, lợi đại tiểu trường (Dược Tính Bản Thảo). + Tả nhiệt thông tiện, phá ứ (Trung Dược Học). Chủ trị: + Trị kết tích ở trường vị do thực nhiệt, huyết ứ kết khối ở vùng bụng,kinh nguyệt bế, cuồng táo do thực hỏa, nôn ra máu, chảy máu cam, tiêu viêmứ, bỏng nóng (xức ở ngoài). Liều dùng: 4- 20g. Tán bột dùng nên giảm liều lượng, dùng ngoài tùy ý. Chú ý: + Vị này không nên sắc lâu, khi sắc thuốc được rồi mới bỏ vào uống. Kiêng kỵ: Đàn bà có thai, phụ nữ thời kỳ có thai hoặc sinh đẻ. Cơ thể suy nhược,dùng rất cẩn thận. Bón người già, bón do huyết ứ cấm dùng. Bảo quản: Để nơi khô ráo, dễ bị biến màu và sâu mọt, nên phơi khô và đậy kỹ, vàomùa hè thỉnh thoảng phơi lại. TÌM HIỂU SÂU THÊM VỀ ĐẠI HOÀNG Tên khác: 1- Có màu rất vàng, nếm vào miệng thấy lạo xạo và có bọt nước vàngnên gọi là Đại hoàng. 2- Có chức năng thay cũ đổi mới như dẹp loạn nên gọi là Tướng quân. 3- Khi cắt ra thấy có vân như gấm (là loại tốt) nên gọi là Cẩm văn đạihoàng. 4- Cây có nhiều ở Tứ xuyên, nên gọi là Xuyên đại hoàng, Xuyên quân,Xuyên văn... (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Tên khoa học: Rheum palmatum Baill.Họ khoa học: Họ Rau Răm (Polygonaceae). Mô tả: Đại hoàng Rhem palmatum Baill ở Trung Quốc còn gọi là Chưởng diệpđại hoàng, đó là cây thảo sống lâu năm, thân hình trụ trong rỗng, cao độ 1m,ngoài nhẵn. Rễ phình thành củ màu vàng, sẫm, mùi thơm hăng. Lá mọc so le,có cuống dài, phiến lá hình tim to bằng cái quạt, đầu nhọn, mép khía răng thưavà sâu, dáng như chia thuỳ nông không đều, Hoa mọc thành chùm dài màu tím.Quả bế 3 cạnh. Phân biệt: Ngoài cây Chưởng diệp đại hoàng vừa mô tả ở trên ra, người ta còndùng 2 cây sau, cũng gọi là Đại hoàng. 1- Dược dụng Đại hoàng (Rheum officinale Baill), đó là cây sống lâunăm. Rễ mập dầy, thô mạnh hình viên chùy ngắn, vỏ màu nâu tím đen, mặt kếmàu vàng. Thân đứng thẳng trong rỗng. Gốc sinh lá lớn mọc so le có cuống d àiphiến lá hình tròn hoặc trứng tròn phía cuống hình tim, đường kính 40-70cm,phiến không chia thùy mà chỉ cắt sâu chừng 1/4, hai bên mép có răng cưa, thânsinh ra tương đối nhỏ. Hoa tự lớn hình viên chùy sinh ở đỉnh có màu lục nhạthoặc vàng trắng. Quả ốm, dài, tròn, hình 3 cạnh. 2- Đường cổ đặc đại hoàng (Rheum tanguticum Maxim. Et Regel -Rheum palmatum L. var Tanguticum Maxim) đó cũng là một cây sống lâunăm. Rễ thô to, thân cao tới 2m, giữa rỗng mặt ngoài nhẵn. Lá ở dưới to, dài,có cuống dài, phiến lá hình tim nhưng xẻ thành 3-7 thùy, mép thùy nguyênhoặc hơi có răng cưa. Lá ở phía trên thân nhỏ hơn. Hoa tự mọc thành chùm,khi còn non hoa có màu tím đỏ. Địa lý: Hiện nay phải nhập ở Trung Quốc và ở một số nước châu Âu, thườngngười ta cho loại Trung Quốc tốt hơn. Đại hoàng là cây nhập nội, cần đượctrồng ở miền núi cao như Sa Pa mới thu hoạch được. Cây ưa khí hậu ẩm mát ởnhững vùng cao trên 1km (so với mặt nước biển). Trồng bằng cách gieo hạt. Thu hái, sơ chế: Sau 3 năm thì thu hoạch được vào tháng 9-10. Đào cả cây cắt bỏ thânchồi, rễ con, lấy củ cạo vỏ ngoài, rửa sạch, để nguyên củ hay bổ đôi ra phơicho mau khô. Đặc biệt không nên dùng dao sắc thiết để cạo vỏ ngoài vì làmnhư thế sẽ biến củ đại hoàng thành màu đen. Phần dùng làm thuốc:Thân, rễ (Radix et Rhizoma Rhei).