Dân Tộc Giáy
Số trang: 2
Loại file: pdf
Dung lượng: 0.00 B
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Dân Tộc GiáyTên dân tộc: Giáy Tên gọi khác: Nhắng, Giẳng Nhóm ngôn ngữ: Tày - Thái Dân số: 37.964 người Lịch sử: Người Giáy từ Trung quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm. Hoạt động sản xuất: Người Giáy có nhiều kinh nghiệm canh tác lúa nước trên những triền ruộng bậc thang. Bên cạnh đó họ còn làm thêm nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dân Tộc GiáyDân Tộc GiáyTên dân tộc: GiáyTên gọi khác: Nhắng, GiẳngNhóm ngôn ngữ: Tày - TháiDân số: 37.964 ngườiLịch sử:Người Giáy từ Trung quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.Hoạt động sản xuất:Người Giáy có nhiều kinh nghiệm canh tác lúa nước trên những triền ruộng bậc thang.Bên cạnh đó họ còn làm thêm nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh.Chăn nuôi theo lối thả rông. Có một số nghề thủ công nhưng chưa phát triển.Ăn:Ăn cơm tẻ. Gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ đồ lên như đồ xôi. Nước luộcgạo dùng làm đồ uống. Cách chế biến món ăn, nhất là ăn trong ngày lễ, ngày tết chịu ảnhhưởng sâu sắc của người Hán.Mặc:Trước kia phụ nữ mặc váy xoè giống như váy của người Hmông. Ngày nay họ mặc quầnmàu chàm đen có dải vải đỏ đắp trên phần cạp, áo cánh 5 thân xẻ tà, dài quá mông, càikhuy bên nách phải, hò áo và cổ tay áo viền những dải vải khác màu. Tóc vấn quanh đầuvới những sợi chỉ hồng thả theo đuôi tóc. Vai khoác túi thêu chỉ màu với hoa văn lànhững đường gấp khúc. Nam giới mặc quần lá toạ, áo cánh xẻ tà, mở khuy ngực.Ở:Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường Khương (Lào Cai), YênMinh, Ðồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ, Mường Tè (Lai Châu). Nhà sàn là nhà ở truyềnthống. Hiện nay, kiểu nhà sàn vẫn phổ biến trong bộ phận người Giáy ở Hà Giang, cònbộ phận ở Lao Cai và Lai Châu ở nhà đất nhưng phía trước nhà vẫn là sàn phơi. Nhàthường có 3 gian, bàn thờ đặt ở gian giữa.Phương tiện vận chuyển:Họ gánh bằng dậu, dùng ngựa thồ, trâu kéo.Quan hệ xã hội:Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Giáy có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Tầng lớptrên là những chức dịch trong bộ máy chính quyền ở xã, thôn bản, nhiều người đượchưởng ruộng công do dân cày cấy, có rừng thảo quả do dân trồng, có lính phục dịch, cóngười lo việc tang, việc cưới, đôi khi có cả đội xoè. Nông dân, ngoài đóng thuế còn phảilàm lao dịch và cống nạp cho các chức dịch.Cưới xin:Gồm nhiều nghi lễ: dạm hỏi, thả mối, ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai đưacho nhà gái một vòng cổ và một vòng tay để đánh dấu. Trong lễ cưới ngoài chi phí choăn uống, nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họhàng gần; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. ở người Giáy cũngcó tục kéo vợ như người Hmông.Sinh đẻ:Khi có thai phụ nữ phải kiêng nhiều thứ: không đun củi từ ngọn lên gốc (sợ đẻ ngược),không đến đám tang hay nơi thờ cúng (sợ mất vía). Gần đến ngày đẻ, họ phải cúng mụ.Trẻ đầy tháng cúng báo tổ tiên, đặt tên và lập lá số cho trẻ để sau này đem so tuổi khi lấyvợ, lấy chồng và chọn giờ nhập quan, hạ huyệt khi chết đi.Ma chay:Người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sốngsung sướng cùng với tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vìthế, ở những gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một sốnghi lễ như thả đèn trôi sông, rước hồn đi dạo... Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạntang thường được tổ chức vào dịp cuối năm.Thờ cúng:Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táoquân, trời đất và tổ tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốnthờ họ bố mẹ đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụtrong buồng thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớncòn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất đặtmột bát hương cúng thổ địa, ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ thần giữ cửa.Lễ tết:Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Ðông Bắc: Tết Nguyên đán, Thanh minh,Ðoan ngọ...Lịch:Người Giáy theo âm lịch.Học:Người Giáy chưa có văn tự, chỉ có một số rất ít người biết chữ Hán.Văn nghệ:Trong kho tàng văn nghệ của người Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, đồng dao, phongdao... Ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là vươn hay phướn hát bên mâm rượu,hát đêm và hát tiễn dặn... (Nguồn từ Internet) ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dân Tộc GiáyDân Tộc GiáyTên dân tộc: GiáyTên gọi khác: Nhắng, GiẳngNhóm ngôn ngữ: Tày - TháiDân số: 37.964 ngườiLịch sử:Người Giáy từ Trung quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.Hoạt động sản xuất:Người Giáy có nhiều kinh nghiệm canh tác lúa nước trên những triền ruộng bậc thang.Bên cạnh đó họ còn làm thêm nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh.Chăn nuôi theo lối thả rông. Có một số nghề thủ công nhưng chưa phát triển.Ăn:Ăn cơm tẻ. Gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ đồ lên như đồ xôi. Nước luộcgạo dùng làm đồ uống. Cách chế biến món ăn, nhất là ăn trong ngày lễ, ngày tết chịu ảnhhưởng sâu sắc của người Hán.Mặc:Trước kia phụ nữ mặc váy xoè giống như váy của người Hmông. Ngày nay họ mặc quầnmàu chàm đen có dải vải đỏ đắp trên phần cạp, áo cánh 5 thân xẻ tà, dài quá mông, càikhuy bên nách phải, hò áo và cổ tay áo viền những dải vải khác màu. Tóc vấn quanh đầuvới những sợi chỉ hồng thả theo đuôi tóc. Vai khoác túi thêu chỉ màu với hoa văn lànhững đường gấp khúc. Nam giới mặc quần lá toạ, áo cánh xẻ tà, mở khuy ngực.Ở:Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường Khương (Lào Cai), YênMinh, Ðồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ, Mường Tè (Lai Châu). Nhà sàn là nhà ở truyềnthống. Hiện nay, kiểu nhà sàn vẫn phổ biến trong bộ phận người Giáy ở Hà Giang, cònbộ phận ở Lao Cai và Lai Châu ở nhà đất nhưng phía trước nhà vẫn là sàn phơi. Nhàthường có 3 gian, bàn thờ đặt ở gian giữa.Phương tiện vận chuyển:Họ gánh bằng dậu, dùng ngựa thồ, trâu kéo.Quan hệ xã hội:Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Giáy có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Tầng lớptrên là những chức dịch trong bộ máy chính quyền ở xã, thôn bản, nhiều người đượchưởng ruộng công do dân cày cấy, có rừng thảo quả do dân trồng, có lính phục dịch, cóngười lo việc tang, việc cưới, đôi khi có cả đội xoè. Nông dân, ngoài đóng thuế còn phảilàm lao dịch và cống nạp cho các chức dịch.Cưới xin:Gồm nhiều nghi lễ: dạm hỏi, thả mối, ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai đưacho nhà gái một vòng cổ và một vòng tay để đánh dấu. Trong lễ cưới ngoài chi phí choăn uống, nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họhàng gần; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. ở người Giáy cũngcó tục kéo vợ như người Hmông.Sinh đẻ:Khi có thai phụ nữ phải kiêng nhiều thứ: không đun củi từ ngọn lên gốc (sợ đẻ ngược),không đến đám tang hay nơi thờ cúng (sợ mất vía). Gần đến ngày đẻ, họ phải cúng mụ.Trẻ đầy tháng cúng báo tổ tiên, đặt tên và lập lá số cho trẻ để sau này đem so tuổi khi lấyvợ, lấy chồng và chọn giờ nhập quan, hạ huyệt khi chết đi.Ma chay:Người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sốngsung sướng cùng với tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vìthế, ở những gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một sốnghi lễ như thả đèn trôi sông, rước hồn đi dạo... Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạntang thường được tổ chức vào dịp cuối năm.Thờ cúng:Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táoquân, trời đất và tổ tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốnthờ họ bố mẹ đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụtrong buồng thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớncòn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất đặtmột bát hương cúng thổ địa, ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ thần giữ cửa.Lễ tết:Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Ðông Bắc: Tết Nguyên đán, Thanh minh,Ðoan ngọ...Lịch:Người Giáy theo âm lịch.Học:Người Giáy chưa có văn tự, chỉ có một số rất ít người biết chữ Hán.Văn nghệ:Trong kho tàng văn nghệ của người Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, đồng dao, phongdao... Ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là vươn hay phướn hát bên mâm rượu,hát đêm và hát tiễn dặn... (Nguồn từ Internet) ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
4 trang 216 0 0
-
Báo cáo Sự thành lập Công ty Đông Ấn Anh và những nỗ lực thâm nhập phương Đông trong thế kỷ XVII.
9 trang 104 0 0 -
4 trang 83 0 0
-
1 trang 69 0 0
-
8 trang 53 0 0
-
11 trang 50 0 0
-
26 trang 42 0 0
-
Hoàn cảnh ra đời và ảnh hưởng của phong trào văn hóa Phục Hưng
2 trang 36 0 0 -
MỘT SỐ TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC TRONG LỊCH SỨ DÂN TỘC
6 trang 30 0 0 -
Sưu tầm truyện thơ của người Mường
6 trang 30 0 0