Danh mục

Dân tộc Lự tham gia quản lý tài nguyên, môi trường và góp phần phát triển bền vững vùng Tây Bắc Việt Nam

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 282.54 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết trình bày khái quát về người Lự ở Tây Bắc; Vai trò dân tộc Lự với việc quản lý tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững vùng Tây Bắc Việt Nam; Phát huy vai trò của dân tộc Lự trong việc quản lý tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững vùng Tây Bắc Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dân tộc Lự tham gia quản lý tài nguyên, môi trường và góp phần phát triển bền vững vùng Tây Bắc Việt Nam Hội thảo khoa học Quốc gia Quản lý tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững vùng Tây Bắc, Việt Nam DÂN TỘC LỰ THAM GIA QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM Thúy Ngoạn Đài Phát thanh - Truyền hình Lai Châu Email: leminhthuyltv@gmail.com 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LỰ Ở TÂY BẮC Dân tộc Lự thuộc nhóm Tày - Thái, là cư dân nông nghiệp, thường sống ở vùng thấp hay thung lũng rộng nơi có sông suối để khai hoang ruộng lúa nước, sống quần tụ, tính cố kết cộng đồng cao. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Lự ở Việt Nam có 6.757 người, phần lớn cư trú tập trung tại các huyện Tam Đường, Tân Uyên và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Người Lự có đời sống tương đồng với người Thái: ở nhà sàn, kết cấu bằng gỗ, trước kia lợp tranh, ngày nay lợp tôn hoặc ngói. Mỗi nhà tùy theo gia cảnh mà dựng 3 gian hoặc 5 gian, thường chung sống với nhau từ hai, ba thế hệ trở lên và có truyền thống trồng bông dệt vải, mỗi nhà thường có từ 2 - 3 chiếc khung cửi. Ẩm thực của người Lự rất phong phú, có hương vị đặc trưng riêng với những món ăn được chế biến từ những nguyên liệu thiên nhiên. Phụ nữ Lự có tập quán nhuộm răng đen từ nhựa cây “mạy tỉu” vừa thể hiện vẻ đẹp vừa có hàm răng chắc khỏe. Trang phục truyền thống của người Lự cả nam và nữ được làm từ vải chàm màu đen. Điểm nhấn của trang phục nữ là những đồng xu, đồng bạc đính trên thân áo, diêm dúa, sặc sỡ bắt mắt. Trang phục của người Lự không chỉ có giá trị về mặt thẩm mỹ mà còn có ý nghĩa về mặt tâm linh: tất cả những hình hoa văn trang trí trên trang phục đều gắn với đời sống mang những nét đặc trưng riêng với mong muốn sung túc, an lành, bình yên. Tất cả các lĩnh vực trong đời sống sinh hoạt của người Lự đều gắn với rừng, đất và nước nên từ xa xưa họ đã có những luật tục, kinh nghiệm dân gian quản lý, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên, giữ gìn môi trường sinh thái. Cùng với các chủ trương đường lối chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước dân tộc Lự đã góp phần làm tốt công tác quản lý tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững vùng Tây Bắc Việt Nam. 2. VAI TRÒ DÂN TỘC LỰ VỚI VIỆC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM Với các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Lự nói riêng tài nguyên, môi trường có vai trò rất quan trọng đối với đời sống sinh hoạt của đồng bào (săn, bắt, hái, lượm), do hầu như tất cả các lĩnh vực ăn, ở, sinh hoạt đều dựa vào thiên nhiên, gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Từ rất lâu đời đồng bào Lự đã có những câu dân ca đề cao vai trò rừng, đất và nước: “khẩu dú ná, pa dú nặm, cặm kin dú pá” nghĩa là (thóc ở ruộng, cá ở nước, thực phẩm ở rừng). Họ quan niệm rằng, cuộc sống tồn tại được chính là nhờ tài nguyên, môi trường, nếu tài nguyên cạn kiệt, môi trường thiên nhiên bị huỷ hoại, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ. Những quy định rất chặt chẽ, cụ thể về cách thức quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên, môi trường được thể hiện rõ nét trong các nghi lễ truyền thống và còn nguyên giá trị đến ngày nay như: dân tộc Hà Nhì với lễ cúng rừng, dân tộc Si La có lễ cúng bản, dân tộc Cống với lễ Tết ngô, dân tộc Giáy cúng “Tu Tỷ” và tiêu biểu là tục cúng rừng của dân tộc Lự: Lễ cúng rừng truyền thống của dân tộc Lự được tổ chức vào ngày 03 tháng 3 và ngày 06 tháng 6 âm lịch hàng năm. Đây được coi như là ngày Tết nên từ bánh trái đến lương thực, thực phẩm, thức ăn cho gia súc, gia cầm được chuẩn bị đầy đủ như: cắt cỏ cá, cỏ trâu, bò và hái rau, hái măng đủ dùng trong 3 ngày kiêng mường. Chủ lễ là thầy cúng do dân bản bầu người đàn ông có uy tín, hiểu biết, thông thạo các luật lý của người Lự. Lễ được tổ chức ngay khu rừng cấm của bản, đây được coi là nơi rất linh thiêng có các vị thần gìn giữ, trông coi đất nương, đất ruộng và che chở cho dân bản yên bình. Ngoài các đồ lễ thầy cúng chuẩn bị như cắt gấp giấy hình con én, con chim, con cua, con cá, gấp thuyền, chén rượu,… còn có một con lợn, 3 con gà, xôi, rượu do dân bản đóng góp. Mỗi hộ tham gia làm lễ một người, tất cả đều chung tay, góp sức để cho buổi lễ uy nghi, linh thiêng: người bện dây, chẻ lạt đan phên mắt cáo để cắm xung quanh bảo vệ rừng, người mổ lợn, mổ gà và chế biến các món ăn. Lễ cúng rừng của người Lự có 5 mâm cúng, mỗi một mâm đều có ý nghĩa và tác dụng riêng. Sau khi sắp lễ xong thầy cúng thắp hương khấn vái trình báo, mời các vị thần linh thổ địa chứng dám lòng thành dân bản, cầu cho rừng mãi xanh tốt, nguồn nước dồi dào quanh năm, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu,… mọi người lần Dân tộc Lự tham gia quản lý tài nguyên, môi trường ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: