Danh mục

Đánh giá hiệu quả kinh tế, môi trường, và xã hội của một số mô hình canh tác trên đất sau dồn điền đổi thửa hướng tới cải thiện sinh kế nông dân tại huyện Hải Hậu, Nam Định

Số trang: 16      Loại file: pdf      Dung lượng: 317.59 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết này đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, và môi trường của một số mô hình canh tác trên đất sau dồn điền đổi thửa hướng tới cải thiện sinh kế nông dân tại Huyện Hải Hậu. Kết quả cho thấy, sau dồn điền đổi thửa tại Hải Hậu có 3 loại hình canh tác sử dụng đất (LHCT) phổ biến được người dân sử dụng là LHCT 2 lúa, LHCT 2 lúa – màu, LHCT 2 màu – lúa. Hiện tại, các hộ dân sử dụng LHCT 2 lúa chiếm tỷ lệ lớn (66,67% tổng số hộ điều tra) còn lại là hộ dân trồng lúa và màu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài viết!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá hiệu quả kinh tế, môi trường, và xã hội của một số mô hình canh tác trên đất sau dồn điền đổi thửa hướng tới cải thiện sinh kế nông dân tại huyện Hải Hậu, Nam Định ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ, MÔI TRƯỜNG, VÀ XÃ HỘI CỦA MỘT SỐ MÔ HÌNH CANH TÁC TRÊN ĐẤT SAU DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA HƯỚNG TỚI CẢI THIỆN SINH KẾ NÔNG DÂN TẠI HUYỆN HẢI HẬU, NAM ĐỊNH Nguyễn Hữu Dũng Bộ môn Kinh tế Tài nguyên. Đại học Kinh tế Quốc dân Email: dungfuv@yahoo.com. Điện thoại: 0961151148 Nguyễn Hải yến Sinh viên K57 Bộ môn Kinh tế Nông nghiệp, Đại học Kinh tế Quốc dân Email: yen.tiny6@gmail.com. Điện thoại: 0364906456 Tóm tắt Đất nông nghiệp rất quan trọng cho phát triển sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam. Gần đây Nhà nước có chính sách dồn điển đổi thửa nhằm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, nâng cao sinh kế cho người nông dân. Bài viết này đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, và môi trường của một số mô hình canh tác trên đất sau dồn điền đổi thửa hướng tới cải thiện sinh kế nông dân tại Huyện Hải Hậu. Kết quả cho thấy, sau dồn điền đổi thửa tại Hải Hậu có 3 loại hình canh tác sử dụng đất (LHCT) phổ biến được người dân sử dụng là LHCT 2 lúa, LHCT 2 lúa – màu, LHCT 2 màu – lúa. Hiện tại, các hộ dân sử dụng LHCT 2 lúa chiếm tỷ lệ lớn (66,67% tổng số hộ điều tra) còn lại là hộ dân trồng lúa và màu. Xét về mặt xã hội, LHCT 2 lúa – màu có mức đầu tư lao động bình quân lớn nhất (836,21 công) bởi có kết hợp giữa lúa với một số cây màu. LHCT 2 lúa có giá trị GO/LĐ (mức đầu tư trên lao động) và VA/LĐ (thu nhập bình quân trên ngày công lao động) thấp nhất (tương ứng 163,69 nghìn đồng, 81,98 nghìn đồng). Xét về mặt kinh tế, LHCT 2 lúa – màu có giá trị sản xuất (GO) và giá trị tăng (VA) có cao nhất (tương ứng188,77 triệu đồng/ ha và 102,25 triệu đồng/ ha), LHCT 2 lúa có giá trị sản xuất (GO) và giá trị gia tăng (VA) nhỏ nhất (tương ứng 86,38 triệu đồng/ha, và 43,26 triệu đồng/ha). Đồng thời, LHCT 2 màu – lúa đạt HQĐV (tỷ suất giá trị gia tăng theo chi phí trung gian) cao nhất là 1,18 lần, tiếp đến là LHCT 2 Lúa – màu có HQĐV đạt 1,05 lần, và thấp nhất là loại hình 2 lúa với HQĐV 1,00 lần. Rõ ràng, nông nghiệp của huyện Hải Hậu nên tập trung vào phát triển mở rộng diện tích cây hoa màu và chỉ duy trì một diện tích ít cây lúa nhằm đảm bảo an ninh lương thực để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Tuy nhiên, xét theo hiệu quả môi trường thì LHCT 2 màu – lúa lại đòi hỏi lượng phân bón lớn nhất trong khi LHCT 2 lúa đòi hỏi ít hơn. Do đó, để sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững sau dồn điền đổi thửa, Hải Hậu có thể lựa chọn mô hình LHCT 2 màu - lúa đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao nhưng phải chú trọng vốn đầu tư và quan tâm công tác giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường để đảm bảo sinh kế cho nông dân bền vững. Từ khóa: Dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất, sinh kế nông dân, mô hình canh tác 411 1. Đặt vấn đề Đất nông nghiệp vừa là tư liệu sản xuất, vừa là nguồn lực không thể thay thế quan trọng cho phát triển sản xuất của Việt Nam. Tuy nhiên, gần đây việc sử dụng đất tại nhiều nơi gặp một số bất cấp như chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp làm cho diện tích đất nông nghiệp bị giảm nhanh, khai thác tiềm năng đất nông nghiệp không hợp lý làm cho đất bạc màu dẫn đến năng suất nông sản kém về sản lượng và chất lượng. Hiện nay Việt Nam có diện tích đất nông nghiệp là 9.598,8 nghìn ha, chiếm 28,99% so với diện tích đất tự nhiên của cả nước. Trong thời gian qua Việt Nam mất khoảng 0,4% tổng diện tích canh tác, riêng đất trồng lúa có tỷ lệ giảm cao hơn khoảng 1%/năm. Không những thế, với sự phát triển của đô thị và công nghệ thì diện tích đất đai này sẽ còn ngày càng giảm đi. Đáng chý ý là những khu vực bị chuyển đổi hầu như lại là vùng đất có chất lượng đất tốt phù hợp cho sản xuất nông nghiệp như đất dọc Quốc lộ 5 qua tỉnh Hải Dương, Hưng Yên; quốc lộ 6 qua huyện Chương Mỹ - Hà Nội, hay các khu công nghiệp ở Hoài Đức – Hà Nội. Vì thế, trong thực trạng đất sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm, cần phải đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất để đảm bảo an ninh lương thực. Gần đây Nhà nước có những chính sách giao đất cho hộ nông dân, coi hộ nông dân như một trong những đơn vị kinh tế tự chủ để nông dân có thể tự đưa ra cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp và đem lại hiệu quả nhất trên đất được giao đây chính là tiền đề để các gia đình, các xã, huyện và tỉnh lựa chọn cơ cấu sản xuất thích hợp. Từ những thay đổi đó thay vì độc canh lúa như lúc trước, nhiều trang trại chuyển sang chuyên canh nông sản hàng hóa, do đó số hộ độc canh lúa đã giảm đi. Nông dân được hỗ trợ tiếp cận tín dụng ngân hàng nhờ chính sách đất nông nghiệp. Bằng cách cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp” cho nông dân, đất nông nghiệp đã được hợp thức hóa quyền sử dụng cho người dân, giúp việc giao dịch quyền sử dụng đất, cho thuê, góp vốn sản xuất hay việc sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng được an toàn và thuận tiện hơn. Chính sách đất nông nghiệp đã từng bước cho thấy rõ hiệu quả từ khuyến khích nông dân tích tụ, tập trung đất với mục tiêu giúp hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn. Nông dân có thể tập trung diện tích đất nông nghiệp liền khoảnh, quy mô lớn bằng cách thuê mướn, chuyển đổi và chuyển nhượng theo đúng quy định pháp lý để áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất, áp dụng các biện pháp bảo vệ thực vật và thâm canh. Đối với hộ dân khác có sở hữu quyền sử dụng đất nông nghiệp nhưng lại không hoặc không đủ khả năng sản xuất nông nghiệp hiệu quả có thể cho thuê. Nhờ đó, quá trình chuyên môn hóa ngành nghề và sàng lọc để tìm ra người làm nông nghiệp giỏi được thúc đẩy ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: